Tăng Chi Bộ 10.115
Aṅguttara Nikāya 10.115
12. Phẩm Đi Xuống
12. Paccorohaṇivagga
Phi Pháp
Tatiyaadhammasutta
“1. Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết;
“Adhammo ca, bhikkhave, veditabbo dhammo ca;
phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết.
anattho ca veditabbo attho ca.
Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.”
Adhammañca viditvā dhammañca, anatthañca viditvā atthañca yathā dhammo yathā attho tathā paṭipajjitabban”ti.
Thế Tôn thuyết như vậy.
Idamavoca bhagavā.
Thuyết như vậy xong, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy và bước vào tinh xá.
Idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
2. Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, suy nghĩ như sau:
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi:
“Này chư Hiền, Thế Tôn đã nói lên một cách vắn tắt lời tuyên bố này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tinh xá:
“idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết.
‘adhammo ca, bhikkhave, veditabbo dhammo ca; anattho ca veditabbo attho ca.
Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.”
Adhammañca viditvā dhammañca, anatthañca viditvā atthañca yathā dhammo yathā attho tathā paṭipajjitabban’ti.
Với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, ai là người có thể phân tích một cách rộng rãi? “
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā”ti?
Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau:
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi:
“Tôn giả Ānanda được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước.
“ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Tôn giả Ānanda, với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, có thể phân tích một cách rộng rãi.
Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Vậy chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda, sau khi đến, sẽ hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa này.
Yannūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāma.
Tôn giả Ānanda trả lời cho chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.”
Yathā no āyasmā ānando byākarissati tathā naṃ dhāressāmā”ti.
3. Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả Ānanda, sau khi đến nói lên với Tôn giả Ānanda những lời chào đón hỏi thăm.
Atha kho te bhikkhū yenāyasmā ānando tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmatā ānandena saddhiṃ sammodiṃsu.
Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy nói với Tôn giả Ānanda:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū āyasmantaṃ ānandaṃ etadavocuṃ:
Thưa Hiền giả Ānanda. Thế Tôn sau khi nói lên một cách vắn tắt lời tuyên bố này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tinh xá:
“Idaṃ kho no, āvuso ānanda, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi hiểu phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành’.
‘adhammo ca ...pe...tathā paṭipajjitabban’ti.
Này Hiền giả, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng tôi suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi:
Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên một cách vắn tắt lời tuyên bố này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tinh xá:
‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavatā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho—
‘Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.’
adhammo ca ...pe... tathā paṭipajjitabbanti.
Với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi”, ai là người có thể phân tích một cách rộng rãi?
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti?
Rồi thưa Hiền giả, chúng tôi suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ etadahosi:
‘Tôn giả Ānanda được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước. Tôn giả Ānanda, với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, có thể phân tích một cách rộng rãi.
‘ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Vậy chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda, sau khi đến, sẽ hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa này.
Yannūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāma.
Tôn giả Ānanda trả lời cho chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.’
Yathā no āyasmā ānando byākarissati tathā naṃ dhāressāmā’ti.
“Thưa Tôn giả Ānanda, hãy phân tích cho.”
Vibhajatu āyasmā ānando”ti.
“4. Chư Hiền, cũng ví như một người cần thiết lõi cây, tìm lõi cây, đi khắp mọi nơi tìm lõi cây, đến một cây to lớn, đứng thẳng và có lõi cây. Người này bỏ qua rễ, bỏ qua thân cây, nghĩ rằng: “Phải tìm lõi cây ở nơi cành lá”.
“Seyyathāpi, āvuso, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva mūlaṃ atikkamma khandhaṃ sākhāpalāse sāraṃ pariyesitabbaṃ maññeyya;
Cũng vậy, là hành động của chư Tôn giả, đứng trước mặt Thế Tôn, quí vị bỏ qua Thế Tôn, nghĩ rằng: “Cần phải hỏi tôi về ý nghĩa này”.
evaṃsampadamidaṃ āyasmantānaṃ satthari sammukhībhūte taṃ bhagavantaṃ atisitvā amhe etamatthaṃ paṭipucchitabbaṃ maññatha.
Chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy. Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Phạm thiên, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp chủ.
So hāvuso, bhagavā jānaṃ jānāti passaṃ passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato.
Hãy tùy thời hỏi Thế Tôn ý nghĩa này.
So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ tumhe bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha.
Thế Tôn giải thích quý vị như thế nào, quí vị hãy như vậy thọ trì.”
Yathā vo bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāthā”ti.
“5. Hiền giả Ānanda, chắc chắn Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy. Ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Phạm thiên, vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp chủ, Như Lai.
“Addhāvuso ānanda, bhagavā jānaṃ jānāti passaṃ passati cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato.
Chúng tôi phải tùy thời hỏi Thế Tôn ý nghĩa này.
So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ mayaṃ bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyāma,
Những gì Thế Tôn giải thích cho chúng tôi, chúng tôi sẽ như vậy thọ trì.
yathā no bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāma.
Nhưng Hiền giả Ānanda được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước.
Api cāyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Hiền giả Ānanda có thể giải thích rộng rãi ý nghĩa lời giảng dạy được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi.
Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Mong Hiền giả Ānanda giải thích, nếu không có sự gì phiền muộn.”
Vibhajatāyasmā ānando agaruṃ katvā”ti.
“6. Vậy chư Hiền, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, tôi sẽ giảng.”
“Tenahāvuso, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng Hiền giả,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ānanda. Tôn giả Ānanda giảng như sau:
“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paccassosuṃ. Athāyasmā ānando etadavoca:
“Thưa chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, đã từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá:
“Yaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết; phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết.
‘adhammo ca, bhikkhave, veditabbo dhammo ca; anattho ca veditabbo attho ca.
Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành.’
Adhammañca viditvā dhammañca, anatthañca viditvā atthañca yathā dhammo yathā attho tathā paṭipajjitabban’ti.
Và này chư Hiền, thế nào là phi pháp, thế nào là pháp, thế nào là phi mục đích và thế nào là mục đích?
Katamo cāvuso, adhammo, katamo ca dhammo, katamo ca anattho, katamo ca attho?
7. Tà kiến, này chư Hiền, là phi pháp; chánh kiến là pháp.
Micchādiṭṭhi, āvuso, adhammo; sammādiṭṭhi dhammo;
những pháp ác bất thiện gì do duyên tà kiến khởi lên, đây là phi mục đích.
ye ca micchādiṭṭhipaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
Và những pháp thiện gì đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
sammādiṭṭhipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Tà tư duy, này chư Hiền, là phi pháp;
Micchāsaṅkappo, āvuso, adhammo;
chánh tư duy là pháp …
sammāsaṅkappo dhammo …
Tà ngữ là phi pháp;
micchāvācā, āvuso, adhammo;
chánh ngữ là pháp …
sammāvācā dhammo …
Này hiền giả, tà nghiệp là phi pháp;
micchākammanto, āvuso, adhammo;
chánh nghiệp là pháp …
sammākammanto dhammo …
Tà mạng là phi pháp;
micchāājīvo, āvuso, adhammo;
chánh mạng là pháp …
sammāājīvo dhammo …
Tà tinh tấn là phi pháp;
micchāvāyāmo, āvuso, adhammo;
chánh tinh tấn là pháp …
sammāvāyāmo dhammo …
Tà niệm là phi pháp;
micchāsati, āvuso, adhammo;
chánh niệm là pháp …
sammāsati dhammo …
Này hiền giả, tà định là phi pháp;
micchāsamādhi, āvuso, adhammo;
chánh định là pháp …
sammāsamādhi dhammo …
Này hiền giả, tà trí là phi pháp;
micchāñāṇaṃ, āvuso, adhammo;
chánh trí là pháp …
sammāñāṇaṃ dhammo ….
Này hiền giả, tà giải thoát là phi pháp;
Micchāvimutti, āvuso, adhammo;
chánh giải thoát là pháp.
sammāvimutti dhammo;
Và những pháp ác bất thiện nào do duyên chánh giải thoát khởi lên đây là phi mục đích,
ye ca micchāvimuttipaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti, ayaṃ anattho;
và những thiện pháp do duyên chánh giải thoát đi đến viên mãn trong tu tập, đây là mục đích.
sammāvimuttipaccayā ca aneke kusalā dhammā bhāvanāpāripūriṃ gacchanti, ayaṃ attho.
Thưa các Hiền giả, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố này một cách vắn tắt mà không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tinh xá:
Ayaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành’. Thưa các Hiền giả, lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn mà không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu ý nghĩa rộng rãi như vậy.
‘adhammo ca, bhikkhave, veditabbo dhammo ca ...pe...tathā paṭipajjitabban’ti, imassa kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi.
Thưa chư Hiền, nếu chư Hiền muốn, hãy đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này.
Ākaṅkhamānā ca pana tumhe, āvuso, bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha.
Thế Tôn trả lời như thế nào, hãy như vậy thọ trì.”
Yathā vo bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāthā”ti.
“Thưa vâng, Hiền giả,” các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Ānanda, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ:
8. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá:
“Yaṃ kho no bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
Phi pháp và pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải hiểu biết, phi mục đích và mục đích cần phải hiểu biết. Sau khi biết phi pháp và pháp, sau khi biết phi mục đích và mục đích, pháp như thế nào, mục đích như thế nào, như thế ấy cần phải thực hành”.
‘adhammo ca, bhikkhave, veditabbo ...pe... tathā paṭipajjitabban’ti.
Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi:
Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời tuyên bố một cách vắn tắt mà không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tinh xá:
‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho—
Phi pháp và pháp cần phải hiểu biết… hãy như thế ấy mà thực hành.
adhammo ca, bhikkhave, veditabbo ...pe... tathā paṭipajjitabbanti.
Với lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, ai là người có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi?
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti?
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ etadahosi:
‘Tôn giả Ānanda được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh có trí bắt chước. Tôn giả Ānanda với lời tuyên bố này được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, có thể phân tích một cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda, sau khi đến, sẽ hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa này. Tôn giả Ānanda trả lời cho chúng ta như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.’
‘ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Yannūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāma. Yathā no āyasmā ānando byākarissati tathā naṃ dhāressāmā’ti.
Bạch Thế Tôn, chúng con đã đi đến Tôn giả Ānanda và hỏi ý nghĩa này.’
Atha kho mayaṃ, bhante, yenāyasmā ānando tenupasaṅkamimhā; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ apucchimhā.
“Bạch Thế Tôn, ý nghĩa của chúng được Tôn giả Ānanda khéo phân tích với những lý do như thế này, với những chữ như thế này, với những chữ như thế này, với những câu văn như thế này”.
Tesaṃ no, bhante, āyasmatā ānandena imehi ākārehi imehi padehi imehi byañjanehi attho suvibhatto”ti.
“9. Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo!
“Sādhu sādhu, bhikkhave.
Hiền trí là Hiền giả Ānanda!
Paṇḍito, bhikkhave, ānando.
Ðại tuệ là Hiền giả Ānanda!
Mahāpañño, bhikkhave, ānando.
Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy đến hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng trả lời như vậy, như đã được Ānanda trả lời.
Mañcepi tumhe, bhikkhave, upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi cetaṃ evamevaṃ byākareyyaṃ yathā taṃ ānandena byākataṃ.
Ðây là ý nghĩa của lời ấy, hãy như vậy thọ trì.”
Eso ceva tassa attho evañca naṃ dhāreyyāthā”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt