Tăng Chi Bộ 10.99
Aṅguttara Nikāya 10.99
10. Phẩm Nam Cư Sĩ (hay Upāli)
10. Upālivagga
Upàli
Upālisutta
1. Bấy giờ có Tôn giả Upāli đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Upāli bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā upāli yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā upāli bhagavantaṃ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, con muốn sống trong rừng núi cao nguyên, tại các trú xứ xa vắng.”
“icchāmahaṃ, bhante, araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevitun”ti.
“2. Này Upāli, không dễ dàng là sống tại các rừng núi cao nguyên, các trú xứ xa vắng.
“Durabhisambhavāni hi kho, upāli, araññavanapatthāni pantāni senāsanāni.
Khó khăn là đời sống viễn ly, khó ưa thích là đời sống độc cư.
Dukkaraṃ pavivekaṃ durabhiramaṃ.
Ta nghĩ rằng: “Các ngôi rừng làm loạn ý Tỷ-kheo chưa được Thiền định”.
Ekatte haranti maññe mano vanāni samādhiṃ alabhamānassa bhikkhuno.
Này Upāli, ai nói như sau:
Yo kho, upāli, evaṃ vadeyya:
“Dầu tôi chưa được Thiền định, tôi sẽ sống tại các rừng núi cao nguyên, tại các trú xứ xa vắng”, thời người ấy được chờ đợi như sau:
‘ahaṃ samādhiṃ alabhamāno araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevissāmī’ti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ:
“Vị ấy sẽ chìm xuống (đáy) hay nổi lên (mặt nước)”.
‘saṃsīdissati vā uplavissati vā’ti.
3. Ví như, này Upāli, một hồ nước lớn.
Seyyathāpi, upāli, mahāudakarahado.
Có con voi lớn đi đến, bảy thước hay tám thước cao. Con voi ấy suy nghĩ:
Atha āgaccheyya hatthināgo sattaratano vā aḍḍhaṭṭharatano vā. Tassa evamassa:
“Ta hãy lặn vào hồ nước này, rồi chơi trò chơi rửa tai, rồi chơi trò chơi rửa lưng;
‘yannūnāhaṃ imaṃ udakarahadaṃ ogāhetvā kaṇṇasandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷeyyaṃ piṭṭhisandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷeyyaṃ.
sau khi chơi trò rửa tai, sau khi chơi trò chơi rửa lưng, sau khi tắm, sau khi uống nước, sau khi từ hồ bước lên, ta đi chỗ nào ta muốn”.
Kaṇṇasandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷitvā piṭṭhisandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷitvā nhatvā ca pivitvā ca paccuttaritvā yena kāmaṃ pakkameyyan’ti.
Rồi con voi ấy lặn vào hồ nước ấy, có thể chơi trò chơi rửa tai, có thể chơi trò chơi rửa lưng;
So taṃ udakarahadaṃ ogāhetvā kaṇṇasandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷeyya piṭṭhisandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷeyya;
sau khi chơi trò chơi rửa tai, sau khi chơi trò rửa lưng, sau khi tắm, sau khi uống nước, sau khi từ hồ bước lên, nó đi chỗ nào nó muốn. Vì sao?
kaṇṇasandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷitvā piṭṭhisandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷitvā nhatvā ca pivitvā ca paccuttaritvā yena kāmaṃ pakkameyya. Taṃ kissa hetu?
Vì tự ngã to lớn tìm được chân đứng trong chỗ nước.
Mahā, upāli, attabhāvo gambhīre gādhaṃ vindati.
Rồi có con thỏ hay con mèo đến. Nó suy nghĩ:
Atha āgaccheyya saso vā biḷāro vā. Tassa evamassa:
“Ta là ai, con voi lớn là ai?
‘ko cāhaṃ, ko ca hatthināgo.
Vậy ta sau khi lặn xuống hồ nước này, có thể chơi trò chơi rửa tai, có thể chơi trò chơi rửa lưng;
Yannūnāhaṃ imaṃ udakarahadaṃ ogāhetvā kaṇṇasandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷeyyaṃ piṭṭhisandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷeyyaṃ;
sau khi chơi trò chơi rửa tai, sau khi chơi trò chơi rửa lưng, sau khi tắm, sau khi uống nước, sau khi từ hồ bước lên, ta sẽ đi chỗ nào ta muốn”.
kaṇṇasandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷitvā piṭṭhisandhovikampi khiḍḍaṃ kīḷitvā nhatvā ca pivitvā ca paccuttaritvā yena kāmaṃ pakkameyyan’ti.
Rồi nó nhảy vào hồ nước ấy lập tức, không có tính toán.
So taṃ udakarahadaṃ sahasā appaṭisaṅkhā pakkhandeyya.
Với nó, được chờ đợi rằng: “Nó sẽ chìm hay nổi trên mặt nước” Vì sao?
Tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ: ‘saṃsīdissati vā uplavissati vā’ti. Taṃ kissa hetu?
Này Upāli, vì tự ngã nhỏ bé không tìm được chân đứng trong nước sâu.
Paritto, upāli, attabhāvo gambhīre gādhaṃ na vindati.
Cũng vậy, này Upāli, ai nói rằng:
Evamevaṃ kho, upāli, yo evaṃ vadeyya:
“Dầu tôi không được định, tôi sẽ sống trong các rừng núi cao nguyên, tại các trú xứ xa vắng”. Với vị ấy, được chờ đợi rằng:
‘ahaṃ samādhiṃ alabhamāno araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevissāmī’ti, tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ:
“Vị ấy sẽ chìm xuống hay nổi trên mặt nước”.
‘saṃsīdissati vā uplavissati vā’ti.
4. Ví như: này Upāli, một đứa trẻ, còn nhỏ, còn yếu, nằm ngửa, chơi với phân và nước tiểu của mình.
Seyyathāpi, upāli, daharo kumāro mando uttānaseyyako sakena muttakarīsena kīḷati.
Thầy nghĩ thế nào, này Upāli, trò chơi con nít này có thiệt là toàn diện đầy đủ không?”
Taṃ kiṃ maññasi, upāli, nanvāyaṃ kevalā paripūrā bālakhiḍḍā”ti?
“Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.
Này Upāli, đứa con nít ấy, sau một thời gian, sau khi lớn lên, sau khi các căn được thuần thục, có được các đồ chơi của những con nít, như trẻ con chơi khăn, chơi nhảy lộn nhào, chơi chong chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ, và nó chơi với những đồ chơi ấy.
“Sa kho so, upāli, kumāro aparena samayena vuddhimanvāya indriyānaṃ paripākamanvāya yāni kānici kumārakānaṃ kīḷāpanakāni bhavanti, seyyathidaṃ—vaṅkakaṃ ghaṭikaṃ mokkhacikaṃ ciṅgulakaṃ pattāḷhakaṃ rathakaṃ dhanukaṃ, tehi kīḷati.
Thầy nghĩ thế nào, này Upāli, trò chơi này so sánh với trò chơi trước, có đi đến thù diệu hơn, thù thắng hơn?”
Taṃ kiṃ maññasi, upāli, nanvāyaṃ khiḍḍā purimāya khiḍḍāya abhikkantatarā ca paṇītatarā cā”ti?
“Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.
“Rồi này Upāli, đứa trẻ ấy, sau một thời gian, sau khi lớn lên, sau khi các căn được thuần thục, thọ hưởng đầy đủ năm món dục lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, kích thúc lòng dục, hấp dẫn,
“Sa kho so, upāli, kumāro aparena samayena vuddhimanvāya indriyānaṃ paripākamanvāya pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgibhūto paricāreti
Với các sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, kích thích lòng dục, hấp dẫn.
cakkhuviññeyyehi rūpehi iṭṭhehi kantehi manāpehi piyarūpehi kāmūpasaṃhitehi rajanīyehi,
với các tiếng do tai nhận thức…
sotaviññeyyehi saddehi …
với các hương do mũi nhận thức…
ghānaviññeyyehi gandhehi …
với các vị do lưỡi nhận thức…
jivhāviññeyyehi rasehi …
với các xúc do thân cảm giác, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, kích thích lòng dục, hấp dẫn.
kāyaviññeyyehi phoṭṭhabbehi iṭṭhehi kantehi manāpehi piyarūpehi kāmūpasaṃhitehi rajanīyehi.
Thầy nghĩ thế nào, này Upāli, trò chơi này, so sánh với các trò chơi trước có thù diệu hơn, thù thắng hơn không?”
Taṃ kiṃ maññasi, upāli, nanvāyaṃ khiḍḍā purimāhi khiḍḍāhi abhikkantatarā ca paṇītatarā cā”ti?
“Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.
“5. Ở đây, này Upāli, Như Lai xuất hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
“Idha kho pana vo, upāli, tathāgato loke uppajjati arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā.
Như Lai sau khi tự chứng ngộ với thắng trí, tuyên bố cho biết về thế giới này, các chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, với chúng Sa-Môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.
So imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti.
Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, nêu rõ phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh.
So dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ, kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāseti.
Người gia chủ, hay con người gia chủ hay một người tái sanh trong một gia đình khác nghe Pháp ấy.
Taṃ dhammaṃ suṇāti gahapati vā gahapatiputto vā aññatarasmiṃ vā kule paccājāto.
Sau khi nghe Pháp, vị ấy sanh lòng tin vào Như Lai.
So taṃ dhammaṃ sutvā tathāgate saddhaṃ paṭilabhati.
Vị ấy thành tựu với lòng tin ấy, suy xét như sau:
So tena saddhāpaṭilābhena samannāgato iti paṭisañcikkhati:
“Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không.
‘sambādho gharāvāso rajāpatho, abbhokāso pabbajjā.
Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
Nayidaṃ sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā ekantaparipuṇṇaṃ ekantaparisuddhaṃ saṅkhalikhitaṃ brahmacariyaṃ carituṃ.
Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.’
Yannūnāhaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajeyyan’ti.
Vị ấy xuất gia như vậy, thọ lãnh đầy đủ sự học tập và nếp sống của các Tỷ-kheo.
So aparena samayena appaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya mahantaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya appaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ pahāya mahantaṃ vā ñātiparivaṭṭaṃ pahāya kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.
Sau khi đoạn tận sát sanh, sống từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình.
So evaṃ pabbajito samāno bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hoti nihitadaṇḍo nihitasattho lajjī dayāpanno sabbapāṇabhūtahitānukampī viharati.
Sau khi đoạn tận lấy của không cho, vị ấy sống từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự mình sống thanh tịnh không có trộm cướp.
Adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭivirato hoti dinnādāyī dinnapāṭikaṅkhī; athenena sucibhūtena attanā viharati.
Sau khi đoạn tận không Phạm hạnh, vị ấy sống Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ.
Abrahmacariyaṃ pahāya brahmacārī hoti ārācārī virato methunā gāmadhammā.
Sau khi đoạn tận nói láo, vị ấy sống từ bỏ nói láo, nói lời chơn thật, nói lời liên hệ đến chân thật, vững chắc đáng tin cậy, không lường gạt lời hứa đối với đời.
Musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭivirato hoti saccavādī saccasandho theto paccayiko avisaṃvādako lokassa.
Sau khi đoạn tận nói hai lưỡi, vị ấy sống từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi nói đến chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người kia; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói đến chỗ này để sanh chia rẽ ở những người này. Như vậy, vị ấy sống kết hợp những kẻ bị chia rẽ, tăng trưởng những kẻ đã hòa hợp, ưa thích hòa hợp, thích thú hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp.
Pisuṇaṃ vācaṃ pahāya pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti, ito sutvā na amutra akkhātā imesaṃ bhedāya, amutra vā sutvā na imesaṃ akkhātā amūsaṃ bhedāya. Iti bhinnānaṃ vā sandhātā sahitānaṃ vā anuppadātā, samaggārāmo samaggarato samagganandī; samaggakaraṇiṃ vācaṃ bhāsitā hoti.
Sau khi đoạn tận lời nói độc ác, vị ấy sống từ bỏ lời nói độc ác; những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, thích ý nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy.
Pharusaṃ vācaṃ pahāya pharusāya vācāya paṭivirato hoti. Yā sā vācā nelā kaṇṇasukhā pemanīyā hadayaṅgamā porī bahujanakantā bahujanamanāpā, tathārūpiṃ vācaṃ bhāsitā hoti.
Sau khi đoạn tận nói lời phù phiếm, vị ấy sống từ bỏ nói lời phù phiếm, nói lời đúng thời, nói lời chân thật, nói lời có ý nghĩa, nói lời về Chánh pháp, nói lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Samphappalāpaṃ pahāya samphappalāpā paṭivirato hoti kālavādī bhūtavādī atthavādī dhammavādī vinayavādī, nidhānavatiṃ vācaṃ bhāsitā hoti kālena sāpadesaṃ pariyantavatiṃ atthasaṃhitaṃ.
Vị ấy sống từ bỏ làm hại các hột giống và các loại cây cỏ;
So bījagāmabhūtagāmasamārambhā paṭivirato hoti.
dùng mỗi ngày một bữa, từ bỏ ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời;
Ekabhattiko hoti rattūparato, virato vikālabhojanā.
từ bỏ đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch,
Naccagītavāditavisūkadassanā paṭivirato hoti,
từ bỏ trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang,
mālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā paṭivirato hoti,
từ bỏ dùng giường cao và giường lớn,
uccāsayanamahāsayanā paṭivirato hoti,
từ bỏ nhận vàng và bạc,
jātarūparajatapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
từ bỏ nhận các hạt sống,
āmakadhaññapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
từ bỏ nhận thịt sống,
āmakamaṃsapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
từ bỏ nhận đàn bà, con gái;
itthikumārikapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai;
dāsidāsapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
từ bỏ nhận cừu và dê;
ajeḷakapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
từ bỏ nhận gia cầm và heo;
kukkuṭasūkarapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái;
hatthigavassavaḷavapaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
từ bỏ nhận ruộng nương đất đai;
khettavatthupaṭiggahaṇā paṭivirato hoti,
từ bỏ việc phái người làm môi giới, hoặc tự mình làm môi giới,
dūteyyapahiṇagamanānuyogā paṭivirato hoti,
từ bỏ buôn bán;
kayavikkayā paṭivirato hoti,
từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường;
tulākūṭakaṃsakūṭamānakūṭā paṭivirato hoti,
từ bỏ các tà hạnh, như hối lộ, gian trá, lừa đảo;
ukkoṭanavañcananikatisāciyogā paṭivirato hoti,
từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.
chedanavadhabandhanaviparāmosaālopasahasākārā paṭivirato hoti.
Vị ấy, biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng.
So santuṭṭho hoti kāyaparihārikena cīvarena kucchiparihārikena piṇḍapātena.
Đi đến chỗ nào cũng mang theo.
Yena yeneva pakkamati samādāyeva pakkamati,
Cũng như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh;
seyyathāpi nāma pakkhī sakuṇo yena yeneva ḍeti sapattabhārova ḍeti.
cũng vậy, vị ấy bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi đến chỗ nào cũng mang theo.
Evamevaṃ bhikkhu santuṭṭho hoti kāyaparihārikena cīvarena kucchiparihārikena piṇḍapātena. Yena yeneva pakkamati samādāyeva pakkamati.
Vị ấy thành tựu với thành tựu giới uẩn này, nội tâm cảm thọ sự an lạc không có phạm lỗi.
So iminā ariyena sīlakkhandhena samannāgato ajjhattaṃ anavajjasukhaṃ paṭisaṃvedeti.
6. Vị ấy, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
So cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī.
Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn.
Yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjati; rakkhati cakkhundriyaṃ, cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati.
Khi tai nghe tiếng …
Sotena saddaṃ sutvā …
mũi ngửi hương …
ghānena gandhaṃ ghāyitvā …
lưỡi nếm vị …
jivhāya rasaṃ sāyitvā …
thân cảm xúc …
kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā …
ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
manasā dhammaṃ viññāya na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī.
Những nguyên nhân gì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn.
Yatvādhikaraṇamenaṃ manindriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjati; rakkhati manindriyaṃ, manindriye saṃvaraṃ āpajjati.
Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này, nên hưởng lạc thọ nội tâm, không có xen lẫn.
So iminā ariyena indriyasaṃvarena samannāgato ajjhattaṃ abyāsekasukhaṃ paṭisaṃvedeti.
7. Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.
So abhikkante paṭikkante sampajānakārī hoti, ālokite vilokite sampajānakārī hoti, samiñjite pasārite sampajānakārī hoti, saṅghāṭipattacīvaradhāraṇe sampajānakārī hoti, asite pīte khāyite sāyite sampajānakārī hoti, uccārapassāvakamme sampajānakārī hoti, gate ṭhite nisinne sutte jāgarite bhāsite tuṇhībhāve sampajānakārī hoti.
Vị ấy thành tựu với Thánh giới uẩn này, thành tựu với Thánh hộ trì các căn này, thành tựu với Thánh chánh niệm tỉnh giác này, chọn một trú xứ thanh vắng như:
So iminā ca ariyena sīlakkhandhena samannāgato, iminā ca ariyena indriyasaṃvarena samannāgato, iminā ca ariyena satisampajaññena samannāgato
rừng, gốc cây, khe đá, hang đá, bãi tha ma, khu rừng xa vắng, ngoài trời, đống rơm.
vivittaṃ senāsanaṃ bhajati araññaṃ rukkhamūlaṃ pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ palālapuñjaṃ.
Vị ấy đi đến rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt.
So araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā nisīdati pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā.
Vị ấy, sau khi đoạn tận tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm khỏi tham ái.
So abhijjhaṃ loke pahāya vigatābhijjhena cetasā viharati, abhijjhāya cittaṃ parisodheti.
Sau khi đoạn tận sân, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận.
Byāpādapadosaṃ pahāya abyāpannacitto viharati sabbapāṇabhūtahitānukampī, byāpādapadosā cittaṃ parisodheti.
Sau khi đoạn tận hôn trầm thụy miên, sống với tâm thoát ly hồn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, vị ấy gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên.
Thinamiddhaṃ pahāya vigatathinamiddho viharati ālokasaññī sato sampajāno, thinamiddhā cittaṃ parisodheti.
Sau khi đoạn tận trạo hối, sống không trạo hối, với nội tâm trầm lặng, vị ấy gột rửa hết tâm trạo cử hối tiếc.
Uddhaccakukkuccaṃ pahāya anuddhato viharati ajjhattaṃ vūpasantacitto, uddhaccakukkuccā cittaṃ parisodheti.
Sau khi đoạn tận nghi ngờ, vị ấy sống thoát ly nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Vicikicchaṃ pahāya tiṇṇavicikiccho viharati akathaṅkathī kusalesu dhammesu, vicikicchāya cittaṃ parisodheti.
8. Vị ấy sau khi đoạn tận năm triền cái này, những pháp làm uế nhiễm tâm, làm hèn yếu trí tuệ.
So ime pañca nīvaraṇe pahāya cetaso upakkilese paññāya dubbalīkaraṇe,
ly dục, ly các pháp bất thiện, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Vì sao, này Upāli, có phải sự an trú này, sánh với các an trú trước, được thù diệu hơn, thù thắng hơn?
Taṃ kiṃ maññasi, upāli, ‘nanvāyaṃ vihāro purimehi vihārehi abhikkantataro ca paṇītataro cā’”ti?
“Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.
“Này Upāli, các đệ tử của Ta, thấy được Pháp này trong tự ngã, sống tại các rừng núi cao nguyên, các trú xứ xa vắng, cho đến khi mục đích của mình chưa đạt, thời họ vẫn trú (tại các chỗ ấy), (hay như mục đích của mình chưa đạt, tức là định chưa đạt; thời không sống trong rừng núi cao nguyên tại các trú xứ xa vắng).
“Imampi kho, upāli, mama sāvakā attani dhammaṃ sampassamānā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, no ca kho tāva anuppattasadatthā viharanti.
9. Lại nữa, này Upāli, Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ tầm và tứ… chứng đạt và an trú Thiền thứ hai.
Puna caparaṃ, upāli, bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ...pe... dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Thầy nghĩ thế nào, này Upāli, có phải sự an trú này, sánh với những an trú trước, được thù diệu hơn, được thù thắng hơn?
Taṃ kiṃ maññasi, upāli, ‘nanvāyaṃ vihāro purimehi vihārehi abhikkantataro ca paṇītataro cā’”ti?
“Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.
“Này Upāli, các đệ tử của Ta, khi quán thấy Pháp này trên tự ngã, họ mới đến ở các rừng núi cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ không trú nếu mục đích của mình chưa đạt được.
“Imampi kho, upāli, mama sāvakā attani dhammaṃ sampassamānā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, no ca kho tāva anuppattasadatthā viharanti.
10. Lại nữa, này Upāli, Tỷ-kheo ly hỷ… chứng và trú Thiền thứ ba.
Puna caparaṃ, upāli, bhikkhu pītiyā ca virāgā ...pe... tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Thầy nghĩ thế nào, này Upāli, ‘có phải sự an trú này, sánh với những an trú trước, được thù diệu hơn, được thù thắng hơn?’”
Taṃ kiṃ maññasi, upāli, ‘nanvāyaṃ vihāro purimehi vihārehi abhikkantataro ca paṇītataro cā’”ti?
“Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.
“Này Upāli, các đệ tử của Ta, khi quán thấy Pháp này trên tự ngã, họ mới đến ở các rừng núi, cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ không trú nếu mục đích của mình chưa đạt được.
“Imampi kho, upāli, mama sāvakā attani dhammaṃ sampassamānā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, no ca kho tāva anuppattasadatthā viharanti.
11. Lại nữa, này Upāli, Tỷ-kheo đoạn lạc… chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Thầy nghĩ thế nào, này Upāli… chưa đạt được…? …
Puna caparaṃ, upāli, bhikkhu sukhassa ca pahānā ...pe... catutthaṃ jhānaṃ ...pe....
12. Lại nữa, này Upāli, Tỷ-kheo vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các tưởng đối ngại, không tác ý đến các tưởng sai biệt, nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng đạt và an trú Không vô biên xứ.
Puna caparaṃ, upāli, bhikkhu sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā ‘ananto ākāso’ti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja viharati.
Thầy nghĩ thế nào, này Upāli, có phải sự an trú này, sánh với những an trú trước, được thù diệu hơn, được thù thắng hơn?”
Taṃ kiṃ maññasi, upāli, ‘nanvāyaṃ vihāro purimehi vihārehi abhikkantataro ca paṇītataro cā’”ti?
“Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.
“Này Upāli, các đệ tử của Ta, khi quán thấy Pháp này trên tự ngã, họ mới đến ở các rừng núi, cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ không trú nếu mục đích của mình chưa đạt được.
“Imampi kho, upāli, mama sāvakā attani dhammaṃ sampassamānā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, no ca kho tāva anuppattasadatthā viharanti.
13. Lại nữa, này Upāli, Tỷ-kheo vượt qua một cách hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ …
Puna caparaṃ, upāli, bhikkhu sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma ‘anantaṃ viññāṇan’ti viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati ...pe....
Lại nữa, này Upāli, Tỷ-kheo vượt qua một cách hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có sở hữu”, chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ …
Sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma ‘natthi kiñcī’ti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati ...pe....
Lại nữa, này Upāli, Tỷ-kheo vượt qua một cách hoàn toàn Vô sở hữu xứ, nghĩ rằng: “Ðây là tịch tịnh, đây là thù diệu”, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma ‘santametaṃ paṇītametan’ti nevasaññānāsaññāyatanaṃ upasampajja viharati.
Thầy nghĩ thế nào, này Upāli, có phải sự an trú này, sánh với các an trú trước, được thù diệu hơn, được thù thắng hơn?
Taṃ kiṃ maññasi, upāli, ‘nanvāyaṃ vihāro purimehi vihārehi abhikkantataro ca paṇītataro cā’”ti?
“Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.
“Này Upāli, các đệ tử của Ta, khi quán thấy Pháp này trên tự ngã, họ mới đến ở các rừng núi, cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ không trú nếu mục đích của mình chưa đạt được.
“Imampi kho, upāli, mama sāvakā attani dhammaṃ sampassamānā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, no ca kho tāva anuppattasadatthā viharanti.
14. Lại nữa, này Upāli, Tỷ-kheo sau khi vượt qua một cách hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định, vị ấy sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn tận.
Puna caparaṃ, upāli, bhikkhu sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma saññāvedayitanirodhaṃ upasampajja viharati; paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti.
Thầy nghĩ thế nào, này Upāli, có phải sự an trú này, sánh với các an trú trước, được thù diệu hơn, được thù thắng hơn?”
Taṃ kiṃ maññasi, upāli, ‘nanvāyaṃ vihāro purimehi vihārehi abhikkantataro ca paṇītataro cā’”ti?
“Thưa có vậy, bạch Thế Tôn.”
“Evaṃ, bhante”.
“Này Upāli, các đệ tử của Ta, sau khi quán thấy Pháp này trên tự ngã đã đến ở trong các rừng núi cao nguyên, tại các trú xứ xa vắng, họ không trú nếu mục đích của mình chưa đạt được.
“Imampi kho, upāli, mama sāvakā attani dhammaṃ sampassamānā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, anuppattasadatthā ca viharanti.
Vậy này Upāli, Thầy hãy sống giữa chúng Tăng. Sống giữa chúng Tăng, Thầy sẽ được an ổn”.
Iṅgha tvaṃ, upāli, saṅghe viharāhi. Saṅghe te viharato phāsu bhavissatī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt