Tăng Chi Bộ 4.32
Aṅguttara Nikāya 4.32
4. Phẩm Bánh Xe
4. Cakkavagga
Con Sư Tử
Saṅgahasutta
“Này các Tỷ-kheo, con sư tử, vua các loài thú, vào buổi chiều đi ra khỏi hang.
“Sīho, bhikkhave, migarājā sāyanhasamayaṃ āsayā nikkhamati.
Sau khi ra khỏi hang, nó duỗi thân mình và chân.
Āsayā nikkhamitvā vijambhati.
Sau khi duỗi thân mình và chân, nó nhìn chung quanh bốn phương.
Vijambhitvā samantā catuddisā anuviloketi.
Sau khi nhìn chung quanh bốn phương, nó rống lên tiếng rống con sư tử ba lần.
Samantā catuddisā anuviloketvā tikkhattuṃ sīhanādaṃ nadati.
Sau khi rống tiếng rống con sư tử ba lần, nó đi ra tìm mồi.
Tikkhattuṃ sīhanādaṃ naditvā gocarāya pakkamati.
Này các Tỷ-kheo, các loài thú thuộc loại bàng sanh nghe tiếng rống của con sư tử, vua các loài thú, phần lớn chúng trở thành sợ hãi, run sợ, khiếp đảm.
Ye kho pana te, bhikkhave, tiracchānagatā pāṇā sīhassa migarañño nadato saddaṃ suṇanti, te yebhuyyena bhayaṃ saṃvegaṃ santāsaṃ āpajjanti.
Các loài ở hang tìm vào hang. Các loài ở nước tìm xuống nước. Các loài ở rừng tìm vào rừng. Các loài chim bay lên hư không.
Bilaṃ bilāsayā pavisanti, dakaṃ dakāsayā pavisanti, vanaṃ vanāsayā pavisanti, ākāsaṃ pakkhino bhajanti.
Này các Tỷ-kheo, các loài voi chúa ở tại làng, thị trấn hay thành phố, bị trói bởi các dây da cứng chắc, bứt đứt, giật đứt những sợi dây ấy, khiếp đảm cuồng chạy tung cả phân và nước tiểu.
Yepi te, bhikkhave, rañño nāgā gāmanigamarājadhānīsu daḷhehi varattehi bandhanehi baddhā, tepi tāni bandhanāni sañchinditvā sampadāletvā bhītā muttakarīsaṃ cajamānā yena vā tena vā palāyanti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là đại thần thông lực của con sư tử, vua các loài thú, đối với các loài bàng sanh, như vậy là đại thế lực, như vậy là đại uy lực.
Evaṃ mahiddhiko kho, bhikkhave, sīho migarājā tiracchānagatānaṃ pāṇānaṃ, evaṃ mahesakkho evaṃ mahānubhāvo.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, vị ấy thuyết pháp:
Evamevaṃ kho, bhikkhave, yadā tathāgato loke uppajjati arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā, so dhammaṃ deseti:
“Ðây là thân, đây là thân tập khởi, đây là thân đoạn diệt, đây là con đường đưa đến thân diệt”.
‘iti sakkāyo, iti sakkāyasamudayo, iti sakkāyanirodho, iti sakkāyanirodhagāminī paṭipadā’ti.
Này các Tỷ-kheo, có chư Thiên tuổi thọ dài, có dung sắc, hưởng lạc nhiều, đã sống lâu trong các lâu đài to lớn. Các chư Thiên này, sau khi nghe Như Lai thuyết pháp, phần lớn họ trở thành sợ hãi, run sợ, khiếp đảm, họ nghĩ:
Yepi te, bhikkhave, devā dīghāyukā vaṇṇavanto sukhabahulā uccesu vimānesu ciraṭṭhitikā, tepi tathāgatassa dhammadesanaṃ sutvā yebhuyyena bhayaṃ saṃvegaṃ santāsaṃ āpajjanti:
“Chúng ta là vô thường, này chư Tôn giả, nhưng chúng ta nghĩ là chúng ta thường còn.
‘aniccā vata kira, bho, mayaṃ samānā niccamhāti amaññimha;
Chúng ta là không thường hằng, này chư Tôn giả, nhưng chúng ta nghĩ là chúng ta thường hằng!
addhuvā vata kira, bho, mayaṃ samānā dhuvamhāti amaññimha;
Chúng ta là không thường trú, này chư Tôn giả, nhưng chúng ta nghĩ là chúng ta thường trú!
asassatā vata kira, bho, mayaṃ samānā sassatamhāti amaññimha.
Này chư Tôn giả, chúng ta là vô thường, không thường hằng, không thường trú, bị thâu nhiếp trong một thân này.’
Mayaṃ kira, bho, aniccā addhuvā asassatā sakkāyapariyāpannā’ti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là đại thần thông lực của Như Lai đối với chư Thiên và thế giới chư Thiên, như vậy là đại thế lực, như vậy là đại uy lực.
Evaṃ mahiddhiko kho, bhikkhave, tathāgato sadevakassa lokassa, evaṃ mahesakkho evaṃ mahānubhāvoti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Thuyết giảng như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
idamavoca bhagavā...pe... etadavoca satthā –
Khi Phật với thắng trí,
Chuyển bánh xe Chánh pháp,
Cho Thiên giới, Nhân giới,
Bậc Ðạo Sư vô tỷ.
Yadā buddho abhiññāya,
dhammacakkaṃ pavattayī;
Sadevakassa lokassa,
satthā appaṭipuggalo.
Sự đoạn diệt thân uẩn,
Sự hiện hữu thân uẩn
Và đường Thánh tám ngành,
Ðưa đến khổ diệt tận.
Sakkāyañca nirodhañca,
sakkāyassa ca sambhavaṃ;
Ariyañcaṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ,
dukkhūpasamagāminaṃ.
Chư Thiên được trường thọ,
Có dung sắc danh xưng,
Sanh khiếp đảm sợ hãi,
Như thú thấy sư tử.
Yepi dīghāyukā devā,
vaṇṇavanto yasassino;
Bhītā santāsamāpāduṃ,
sīhassevitaremigā.
Vì chưa thoát thân uẩn,
Nghe chúng ta vô thường,
Khi nghe lời Ứng Cúng,
Ðược giải thoát như vậy.
Avītivattā sakkāyaṃ,
aniccā kira bho mayaṃ;
Sutvā arahato vākyaṃ,
vippamuttassa tādino”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt