Tăng Chi Bộ 4.55
Aṅguttara Nikāya 4.55
6. Phẩm Nguồn Sanh Phước
6. Puññābhisandavagga
Xứng Ðôi (1)
Paṭhamasamajīvīsutta
Như vầy, tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Bhagga tại núi Cá Sấu, rừng Bhesakaḷā.
ekaṃ samayaṃ bhagavā bhaggesu viharati susumāragire bhesakaḷāvane migadāye.
Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ gia chủ cha Nakulā, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena nakulapituno gahapatissa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.
Rồi gia chủ cha Nakulā và nữ gia chủ mẹ Nakulā đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ cha Nakulā bạch Thế Tôn:
Atha kho nakulapitā ca gahapati nakulamātā ca gahapatānī yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinno kho nakulapitā gahapati bhagavantaṃ etadavoca:
“Từ khi nữ gia chủ, mẹ của Nakulā đem gả cho con, khi con còn trẻ tuổi, con không bao giờ xâm phạm bất cứ điều gì đến vợ con, cho đến ý nghĩ cũng không, chớ đừng nói gì đến thân.
“Yato me, bhante, nakulamātā gahapatānī daharasseva daharā ānītā, nābhijānāmi nakulamātaraṃ gahapatāniṃ manasāpi aticaritā, kuto pana kāyena.
Vì rằng bạch Thế Tôn, chúng con muốn thấy mặt nhau trong đời này, và còn muốn thấy mặt nhau trong đời sau nữa.”
Iccheyyāma mayaṃ, bhante, diṭṭhe ceva dhamme aññamaññaṃ passituṃ abhisamparāyañca aññamaññaṃ passitun”ti.
Nữ gia chủ mẹ Nakulā bạch Thế Tôn:
Nakulamātāpi kho gahapatānī bhagavantaṃ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, từ khi con được đem về đây gả cho gia chủ cha Nakulā khi con còn trẻ tuổi, con không bao giờ xâm phạm bất cứ điều gì đến gia chủ cha Nakulā, cho đến ý nghĩ cũng không, chớ đừng nói gì đến thân.
“yatohaṃ, bhante, nakulapituno gahapatissa daharasseva daharā ānītā, nābhijānāmi nakulapitaraṃ gahapatiṃ manasāpi aticaritā, kuto pana kāyena.
Vì rằng bạch Thế Tôn, chúng con muốn thấy mặt nhau, trong đời này, mà còn muốn thấy mặt nhau trong đời sau nữa.”
Iccheyyāma mayaṃ, bhante, diṭṭhe ceva dhamme aññamaññaṃ passituṃ abhisamparāyañca aññamaññaṃ passitun”ti.
“Vậy này các Gia chủ, khi cả hai vợ và chồng muốn thấy mặt nhau trong đời này, và cũng muốn thấy mặt nhau trong đời sau nữa, và cả hai người là đồng tín, đồng giới, đồng thí đồng trí tuệ, thời trong đời hiện tại, các người được thấy mặt nhau, và trong đời sau, các người cũng được thấy mặt nhau.
“Ākaṅkheyyuñce, gahapatayo, ubho jānipatayo diṭṭhe ceva dhamme aññamaññaṃ passituṃ abhisamparāyañca aññamaññaṃ passituṃ ubhova assu samasaddhā samasīlā samacāgā samapaññā, te diṭṭhe ceva dhamme aññamaññaṃ passanti abhisamparāyañca aññamaññaṃ passantīti.
Cả hai, tín, bố thí,
Ubho saddhā vadaññū ca,
Sống chế ngự, chánh mạng,
saññatā dhammajīvino;
Cả hai vợ chồng ấy,
Te honti jānipatayo,
Nói lời thân ái nhau,
aññamaññaṃ piyaṃvadā.
Ðời sống nhiều hạnh phúc,
Atthāsaṃ pacurā honti,
Chờ đợi hai người ấy.
phāsukaṃ upajāyati;
Kẻ thù không thích ý,
Amittā dummanā honti,
Cả hai giới hạnh lành,
ubhinnaṃ samasīlinaṃ.
Ở đây sống theo Pháp,
Idha dhammaṃ caritvāna,
Giữ cấm giới đồng đẳng,
Cả hai giới hạnh lành,
samasīlabbatā ubho;
Sống hoan hỷ Thiên giới,
Nandino devalokasmiṃ,
Hân hoan được thỏa mãn,
Ðúng với điều sở cầu.”
modanti kāmakāmino”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt