Tăng Chi Bộ 8.77
Aṅguttara Nikāya 8.77
8. Phẩm Song Đôi
8. Yamakavagga
Dục
Icchāsutta
1. Tại đấy, Tôn giả Sāriputta gọi các Tỷ-kheo: “Này các Hiền giả Tỷ-kheo”.
Tatra kho āyasmā sāriputto bhikkhū āmantesi: “āvuso bhikkhavo”ti.
“Thưa Hiền giả,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta.
“Āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa paccassosuṃ.
Tôn giả Sāriputta nói như sau:
Āyasmā sāriputto etadavoca:
“2. Này các Hiền giả, có tám hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là tám?
“Aṭṭhime, āvuso, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame aṭṭha?
3. Ở đây, này các Hiền giả, Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng.
Idhāvuso, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino icchā uppajjati lābhāya.
Vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng.
So uṭṭhahati, ghaṭati, vāyamati lābhāya.
Dầu cho vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, nhưng lợi dưỡng không đến.
Tassa uṭṭhahato, ghaṭato, vāyamato lābhāya lābho nuppajjati.
Do không được lợi dưỡng, vị ấy sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
So tena alābhena socati kilamati paridevati, urattāḷiṃ kandati, sammohaṃ āpajjati.
Này các Hiền giả, vị ấy được gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi dưỡng, vị ấy sầu muộn, than khóc, bỏ rơi diệu pháp.
Ayaṃ vuccatāvuso, ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, uṭṭhahati, ghaṭati, vāyamati lābhāya, na ca lābhī, socī ca paridevī ca, cuto ca saddhammā’.
4. Ở đây, này các Hiền giả, có Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng.
Idha panāvuso, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino icchā uppajjati lābhāya.
Vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng.
So uṭṭhahati, ghaṭati, vāyamati lābhāya.
Do hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên.
Tassa uṭṭhahato ghaṭato vāyamato lābhāya lābho uppajjati.
Với lợi dưỡng ấy, vị ấy đắm say, phóng dật, rơi vào tình trạng đắm say, phóng dật.
So tena lābhena majjati pamajjati pamādamāpajjati.
Ðây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng, trở thành đắm say, phóng dật và bỏ rơi diệu pháp.
Ayaṃ vuccatāvuso, ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, uṭṭhahati ghaṭati vāyamati lābhāya, lābhī ca, madī ca pamādī ca, cuto ca saddhammā’.
5. Ở đây, này các Hiền giả, có Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng.
Idha panāvuso, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino icchā uppajjati lābhāya.
Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng.
So na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati lābhāya.
Do vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn, lợi dưỡng không khởi lên.
Tassa anuṭṭhahato, aghaṭato, avāyamato lābhāya lābho nuppajjati.
Vị ấy do không được lợi dưỡng, nên sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
So tena alābhena socati kilamati paridevati, urattāḷiṃ kandati, sammohaṃ āpajjati.
Ðây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi dưỡng, nên sầu muộn, than van và bỏ rơi diệu pháp.
Ayaṃ vuccatāvuso, ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati lābhāya, na ca lābhī, socī ca paridevī ca, cuto ca saddhammā’.
6. Ở đây, này các Hiền giả, có Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng.
Idha panāvuso, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino icchā uppajjati lābhāya.
Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng.
So na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati lābhāya.
Dầu vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên.
Tassa anuṭṭhahato, aghaṭato, avāyamato lābhāya lābho uppajjati.
Với lợi dưỡng ấy, vị ấy đắm say phóng dật, rơi vào trạng thái đắm say, phóng dật.
So tena lābhena majjati pamajjati pamādamāpajjati.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng, bị đắm say, bị phóng dật và bỏ rơi diệu pháp.
Ayaṃ vuccatāvuso, ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, na uṭṭhahati na ghaṭati na vāyamati lābhāya, lābhī ca, madī ca pamādī ca, cuto ca saddhammā’.
7. Ở đây, này các Hiền giả, có Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng.
Idha panāvuso, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino icchā uppajjati lābhāya.
Vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng.
So uṭṭhahati, ghaṭati, vāyamati lābhāya.
Dầu cho vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng không khởi lên.
Tassa uṭṭhahato, ghaṭato, vāyamato lābhāya, lābho nuppajjati.
Vị ấy dầu không được lợi dưỡng, không sầu muộn, không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh.
So tena alābhena na socati na kilamati na paridevati, na urattāḷiṃ kandati, na sammohaṃ āpajjati.
Này các Hiền giả, đây gọi là Tỷ-kheo, sống ham muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi dưỡng, không sầu muộn, không than van, và không bỏ rơi diệu pháp.
Ayaṃ vuccatāvuso, ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, uṭṭhahati ghaṭati vāyamati lābhāya, na ca lābhī, na ca socī na ca paridevī, accuto ca saddhammā’.
8. Ở đây, này các Hiền giả, có Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng.
Idha panāvuso, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino icchā uppajjati lābhāya.
Vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng.
So uṭṭhahati, ghaṭati, vāyamati lābhāya.
Do vị ấy hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên.
Tassa uṭṭhahato, ghaṭato, vāyamato lābhāya, lābho uppajjati.
Vị ấy, với lợi dưỡng ấy, không đắm say, không phóng dật, không rơi vào trạng thái đắm say phóng dật.
So tena lābhena na majjati na pamajjati na pamādamāpajjati.
Này các Hiền giả, đây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, hăng hái, phấn chấn, tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng, không đắm say, không phóng dật, không bỏ rơi diệu pháp.
Ayaṃ vuccatāvuso, ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, uṭṭhahati, ghaṭati, vāyamati lābhāya, lābhī ca, na ca madī na ca pamādī, accuto ca saddhammā’.
9. Ở đây, này các Hiền giả, trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng.
Idha panāvuso, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino icchā uppajjati lābhāya.
Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng.
So na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati lābhāya.
Do vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn, lợi dưỡng không khởi lên.
Tassa anuṭṭhahato, aghaṭato, avāyamato lābhāya, lābho nuppajjati.
Vị ấy dầu không được lợi dưỡng, không sầu muộn, không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh.
So tena alābhena na socati na kilamati na paridevati, na urattāḷiṃ kandati, na sammohaṃ āpajjati.
Này các Hiền giả, đây gọi là Tỷ-kheo sống ước muốn lợi dưỡng, không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; không được lợi dưỡng, không sầu muộn, không than van, không bỏ rơi diệu pháp.
Ayaṃ vuccatāvuso, ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati lābhāya, na ca lābhī, na ca socī na ca paridevī, accuto ca saddhammā’.
10. Ở đây, này các Hiền giả, có Tỷ-kheo trong khi sống nhàn tịnh, không có tinh tấn, khởi lên ước muốn có lợi dưỡng.
Idha panāvuso, bhikkhuno pavivittassa viharato nirāyattavuttino icchā uppajjati lābhāya.
Vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng.
So na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati lābhāya.
Dầu cho vị ấy không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng, lợi dưỡng khởi lên.
Tassa anuṭṭhahato, aghaṭato, avāyamato lābhāya, lābho uppajjati.
Vị ấy, với lợi dưỡng ấy, không đắm say, không phóng dật, không rơi vào trạng thái đắm say phóng dật.
So tena lābhena na majjati na pamajjati na pamādamāpajjati.
Này các Hiền giả, đây gọi là Tỷ-kheo sống ham muốn lợi dưỡng, không hăng hái, không phấn chấn, không tinh tấn để được lợi dưỡng; được lợi dưỡng, không đắm say, không phóng dật, không bỏ rơi diệu pháp.
Ayaṃ vuccatāvuso, ‘bhikkhu iccho viharati lābhāya, na uṭṭhahati, na ghaṭati, na vāyamati lābhāya, lābhī ca, na ca madī na ca pamādī, accuto ca saddhammā’.
Này các Hiền giả, có tám hạng người này sống có mặt, hiện hữu ở đời.”
Ime kho, āvuso, aṭṭha puggalā santo saṃvijjamānā lokasmin”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt