Tương Ưng Bộ 1.50
Saṃyutta Nikāya 1.50
5. Phẩm Thiêu Cháy
5. Ādittavagga
Thợ Ðồ Gốm
Ghaṭīkārasutta
“Ðược sanh Vô phiền thiên,
Bảy Tỷ-kheo giải thoát,
Ðoạn tận tham và sân,
Vượt qua đời triền phược.”
“Avihaṃ upapannāse,
vimuttā satta bhikkhavo;
Rāgadosaparikkhīṇā,
tiṇṇā loke visattikan”ti.
“Vượt bùn, họ là ai,
Khéo vượt lệnh thần chết,
Sau khi bỏ thân người,
Họ thoát ách chư Thiên?”
“Ke ca te ataruṃ paṅkaṃ,
maccudheyyaṃ suduttaraṃ;
Ke hitvā mānusaṃ dehaṃ,
dibbayogaṃ upaccagun”ti.
“Họ là Upaka,
Và Palagaṇḍa,
Với Pukkusāti,
Hợp thành là ba vị,
Lại thêm Bhaddiya,
Với Khandadeva,
Và Bāhuraggi,
Cùng với Pingiya,
Sau khi bỏ thân người,
Họ thoát ách chư Thiên.”
“Upako palagaṇḍo ca,
pukkusāti ca te tayo;
Bhaddiyo khaṇḍadevo ca,
bāhuraggi ca siṅgiyo;
Te hitvā mānusaṃ dehaṃ,
dibbayogaṃ upaccagun”ti.
“Upaka and Palagaṇḍa,
(Thế Tôn):
“Người nói điều tốt lành,
Về bảy Tỷ-kheo ấy,
Họ thoát ly, đoạn trừ,
Các cạm bẫy Ma vương,
Pháp họ biết, của ai,
Ðoạn diệt hữu kiết sử?”
“Kusalī bhāsasī tesaṃ,
mārapāsappahāyinaṃ;
Kassa te dhammamaññāya,
acchiduṃ bhavabandhanan”ti.
(Ghaṭikāra):
“Không ai ngoài Thế Tôn,
Chính thật giáo lý Ngài,
Họ biết pháp của Ngài,
Ðoạn được hữu kiết sử.
“Na aññatra bhagavatā,
nāññatra tava sāsanā;
Yassa te dhammamaññāya,
acchiduṃ bhavabandhanaṃ.
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn diệt, không dư,
Họ học được pháp ấy,
Ở đây từ nơi Ngài.
Nhờ vậy họ đoạn trừ,
Hữu kiết sử trói buộc.”
Yattha nāmañca rūpañca,
asesaṃ uparujjhati;
Taṃ te dhammaṃ idhaññāya,
acchiduṃ bhavabandhanan”ti.
(Thế Tôn):
“Lời nói người thâm sâu,
Khó biết, khó chứng ngộ,
Pháp Ông biết của ai,
Sao Ông không nói được?”
“Gambhīraṃ bhāsasī vācaṃ,
dubbijānaṃ sudubbudhaṃ;
Kassa tvaṃ dhammamaññāya,
vācaṃ bhāsasi īdisan”ti.
(Ghaṭikāra):
“Thuở xưa, con thợ gốm,
Tại Vehalinga,
Và con được tên gọi,
Là Ghaṭikāra.
Chính con lo nuôi dưỡng,
Cả mẹ lẫn cả cha,
Ðối với Phật Ca-diếp,
Con đệ tử tại gia.
“Kumbhakāro pure āsiṃ,
vekaḷiṅge ghaṭīkaro;
Mātāpettibharo āsiṃ,
kassapassa upāsako.
Con viễn ly dâm dục,
Phạm hạnh, không thế vật,
Thuở xưa con đồng hương,
Cũng là bạn của họ,
Virato methunā dhammā,
brahmacārī nirāmiso;
Ahuvā te sagāmeyyo,
ahuvā te pure sakhā.
Do vậy con biết họ,
Bảy Tỷ-kheo giải thoát,
Ðoạn tận tham và sân,
Vượt qua đời triền phược.”
Sohamete pajānāmi,
vimutte satta bhikkhavo;
Rāgadosaparikkhīṇe,
tiṇṇe loke visattikan”ti.
(Thế Tôn):
“Vậy này Bhaggava,
Chính như Ông vừa nói,
Thuở xưa, Ông thợ gốm,
Tại Vehalinga,
Và Ông được tên gọi,
Là Ghaṭikāra.
Chính Ông lo nuôi dưỡng,
Cả mẹ lẫn cả cha,
Ðối với Phật Ca-diếp,
Ông đệ tử tại gia.
“Evametaṃ tadā āsi,
yathā bhāsasi bhaggava;
Kumbhakāro pure āsi,
vekaḷiṅge ghaṭīkaro;
Mātāpettibharo āsi,
kassapassa upāsako.
Ông viễn ly dâm dục,
Phạm hạnh, không thế vật.
Thuở xưa Ông đồng hương,
Cũng là bạn của Ta,”
Virato methunā dhammā,
brahmacārī nirāmiso;
Ahuvā me sagāmeyyo,
ahuvā me pure sakhā”ti.
“Như vậy là hội ngộ,
Giữa những bạn thời xưa,
Cả hai khéo tu tập,
Mang thân này tối hậu.”
“Evametaṃ purāṇānaṃ,
sahāyānaṃ ahu saṅgamo;
Ubhinnaṃ bhāvitattānaṃ,
sarīrantimadhārinan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt