Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 10.5

Tương Ưng Bộ 10.5
Saṃyutta Nikāya 10.5

1. Phẩm Indaka
1. Indakavagga

Sānu
Sānusutta

Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại vườn ông Anāthapiṇḍika.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Lúc bấy giờ, Sānu, con một nữ cư sĩ bị Dạ-xoa ám ảnh.
Tena kho pana samayena aññatarissā upāsikāya sānu nāma putto yakkhena gahito hoti.

Nữ cư sĩ ấy than khóc, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:
Atha kho sā upāsikā paridevamānā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi:

“Ngày mười bốn, mười lăm,
Và ngày tám nửa tháng,
Cả ngày lễ đặc biệt,
Khéo tu tám trai giới,
“Cātuddasiṃ pañcadasiṃ,
yā ca pakkhassa aṭṭhamī;
Pāṭihāriyapakkhañca,
aṭṭhaṅgasusamāgataṃ.

Tuân trì lễ Bố-tát,
Những ai sống Phạm hạnh,
Dạ-xoa không ám ảnh,
Vị La-hán nói vậy.
Nhưng nay ta thấy Sānu,
Bị Dạ-xoa ám ảnh.
Uposathaṃ upavasanti,
brahmacariyaṃ caranti ye;
Na tehi yakkhā kīḷanti,
iti me arahataṃ sutaṃ;
Sā dāni ajja passāmi,
yakkhā kīḷanti sānunā”ti.

“Ngày mười bốn, mười lăm,
Và ngày tám nửa tháng,
Cả ngày lễ đặc biệt,
Khéo tu tám trai giới,
“Cātuddasiṃ pañcadasiṃ,
yā ca pakkhassa aṭṭhamī;
Pāṭihāriyapakkhañca,
aṭṭhaṅgasusamāgataṃ.

Tuân trì lễ Bố-tát,
Những ai sống Phạm hạnh,
Dạ-xoa không ám ảnh."
Lời này quả đúng là,
Nghe từ Bậc La-hán.
Uposathaṃ upavasanti,
brahmacariyaṃ caranti ye.
Na tehi yakkhā kīḷanti,
sāhu te arahataṃ sutaṃ;

Hãy nói với Sānu,
Khi đã được thức tỉnh,
Lời này của Dạ-xoa:
"Chớ có làm điều ác,
Công khai hay bí mật.
Sānuṃ pabuddhaṃ vajjāsi,
yakkhānaṃ vacanaṃ idaṃ;
Mākāsi pāpakaṃ kammaṃ,
āvi vā yadi vā raho.

Nếu người làm điều ác,
Sẽ làm hay đang làm,
Ông không thoát khổ đau,
Dầu có bay hay chạy.”
Sace ca pāpakaṃ kammaṃ,
karissasi karosi vā;
Na te dukkhā pamutyatthi,
uppaccāpi palāyato”ti.

(Sānu được khỏi ám ảnh):

“Này mẹ, người ta khóc,
Là khóc cho người chết,
Hay khóc cho người sống,
Nhưng không được thấy mặt?
Này mẹ, chúng thấy con,
Hiện có mặt đang sống,
Vậy sao mẹ khóc con,
Này người mẹ thân yêu?”
“Mataṃ vā amma rodanti,
yo vā jīvaṃ na dissati;
Jīvantaṃ amma passantī,
kasmā maṃ amma rodasī”ti.

(Bà mẹ):

“Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người chết,
Hoặc khóc cho người sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống nhưng đã chết.
“Mataṃ vā putta rodanti,
yo vā jīvaṃ na dissati;
Yo ca kāme cajitvāna,
punarāgacchate idha;
Taṃ vāpi putta rodanti,
puna jīvaṃ mato hi so.

Nay con được kéo ra,
Khỏi than hừng đỏ rực,
Con còn muốn rơi vào,
Ðống than hồng ấy chăng?
Nay con được thoát ra,
Khỏi địa ngục đau khổ,
Con còn muốn rơi vào,
Cõi địa ngục ấy chăng?
Kukkuḷā ubbhato tāta,
kukkuḷaṃ patitumicchasi;
Narakā ubbhato tāta,
narakaṃ patitumicchasi.

Hãy dong ruổi đời con,
Ta chúc con hạnh phúc,
Hãy sống như thế nào,
Không làm ai bực phiền.
Ðồ vật thoát lửa cháy,
Con muốn đốt lại chăng?”
Abhidhāvatha bhaddante,
kassa ujjhāpayāmase;
Ādittā nīhataṃ bhaṇḍaṃ,
puna ḍayhitumicchasī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt