Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 11.22

Tương Ưng Bộ 11.22
Saṃyutta Nikāya 11.22

Phẩm Thứ Ba (Sakka Năm Kinh)
3. Tatiyavagga

Xấu Xí
Dubbaṇṇiyasutta

Gần Sāvatthī trong Rừng Jeta.
Sāvatthiyaṃ jetavane.

Tại đây ... Thế Tôn nói như sau:
Tatra kho ...pe... etadavoca:

“Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có một Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng, đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka.
“bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno ahosi.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên bực tức, chán ghét, phẫn uất:
Tatra sudaṃ, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti:

‘Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay!
‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho.

Tên Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to lại đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka!’
Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno’ti.

Này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên càng bực tức, chán ghét, phẫn uất bao nhiêu, thời Dạ-xoa ấy càng đẹp hơn, càng dễ nhìn, càng dễ thương bấy nhiêu.
Yathā yathā kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro ca.

Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đi đến Thiên chủ Sakka; sau khi đến, nói với Thiên chủ Sakka:
Atha kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā yena sakko devānamindo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā sakkaṃ devānamindaṃ etadavocuṃ:

‘Ở đây, này Tôn giả, có một Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng đến ngồi trên chỗ ngồi của Ngài.
‘idha te, mārisa, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno.

Ở đây, này Tôn giả, chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bực tức, chán ghét, phẫn uất:
Tatra sudaṃ, mārisa, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti:

“Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay!
“acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho.

Dạ-xoa này xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng lại đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka!”
Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno”ti.

Nhưng này Tôn giả, chư Thiên ở Tam thập tam thiên càng bực tức, chán ghét, phẫn uất bao nhiêu, thời Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng ấy càng tốt đẹp, càng dễ nhìn và càng dễ thương bấy nhiêu.
Yathā yathā kho, mārisa, devā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro cāti.

Thưa Tôn giả, có phải Dạ-xoa ấy sẽ trở thành Dạ-xoa nuôi dưỡng với phẫn nộ.’
So hi nūna, mārisa, kodhabhakkho yakkho bhavissatī’ti.

Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đi đến Dạ-xoa nuôi dưỡng bằng phẫn nộ ấy; sau khi đến đắp thượng y vào một bên vai, đầu gối phải quỳ trên đất, chấp tay vái Dạ-xoa nuôi dưỡng với phẫn nộ và nói lên tên của mình ba lần:
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo yena so kodhabhakkho yakkho tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā dakkhiṇajāṇumaṇḍalaṃ pathaviyaṃ nihantvā yena so kodhabhakkho yakkho tenañjaliṃ paṇāmetvā tikkhattuṃ nāmaṃ sāveti:

‘Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka! Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka!’
‘sakkohaṃ, mārisa, devānamindo, sakkohaṃ, mārisa, devānamindo’ti.

Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka càng nói lên tên của mình bao nhiêu thời Dạ-xoa ấy càng trở thành xấu xí, thấp lùn, bụng biến dạng bấy nhiêu;
Yathā yathā kho, bhikkhave, sakko devānamindo nāmaṃ sāvesi tathā tathā so yakkho dubbaṇṇataro ceva ahosi okoṭimakataro ca.

và sau khi trở thành càng xấu xí, càng thấp lùn, bụng biến dạng hơn, vị ấy biến mất tại chỗ ấy.
Dubbaṇṇataro ceva hutvā okoṭimakataro ca tatthevantaradhāyīti.

Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, sau khi ngồi xuống trên chỗ ngồi của mình, làm cho hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngay lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo sake āsane nisīditvā deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi:

Tâm ta không dễ dàng,
Ðể cho bị thất trận,
Không dễ bị lôi kéo,
Trong xoáy nước dục tình.
Người biết đã từ lâu,
Ta không còn phẫn nộ,
Phẫn nộ không chân đứng
Một chỗ nào trong ta.
‘Na sūpahatacittomhi,
nāvattena suvānayo;
Na vo cirāhaṃ kujjhāmi,
kodho mayi nāvatiṭṭhati.

Ta không nói ác ngữ,
Vì phẫn nộ giận hờn,
Và không có khen tặng,
Những đức tánh của ta.
Thấy được lợi ích mình,
Ta tự thân chế ngự.
Kuddhāhaṃ na pharusaṃ brūmi,
Na ca dhammāni kittaye;
Sanniggaṇhāmi attānaṃ,
Sampassaṃ atthamattano’”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt