Tương Ưng Bộ 11.24
Saṃyutta Nikāya 11.24
Phẩm Thứ Ba (Sakka Năm Kinh)
3. Tatiyavagga
Tội Lỗi (hay Không phẫn nộ)
Accayasutta
Ở Sāvatthī.
Sāvatthiyaṃ ...pe... ārāme.
Lúc bấy giờ hai Tỷ-kheo cãi lộn nhau.
Tena kho pana samayena dve bhikkhū sampayojesuṃ.
Ở đây, một Tỷ-kheo phạm tội,
Tatreko bhikkhu accasarā.
Tỷ-kheo ấy phát lộ tội phạm là tội phạm trước mặt Tỷ-kheo kia.
Atha kho so bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti;
Tỷ-kheo ấy không chấp nhận.
so bhikkhu nappaṭiggaṇhāti.
Rồi Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ:
“Ở đây, bạch Thế Tôn, có hai Tỷ-kheo cãi lộn nhau. Một Tỷ-kheo phạm tội.
“idha, bhante, dve bhikkhū sampayojesuṃ, tatreko bhikkhu accasarā.
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy phát lộ tội phạm là tội phạm trước mặt Tỷ-kheo kia. Tỷ-kheo ấy không chấp nhận”.
Atha kho so, bhante, bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti, so bhikkhu nappaṭiggaṇhātī”ti.
“Này các Tỷ-kheo, hai Tỷ-kheo này là ngu si:
“Dveme, bhikkhave, bālā.
một vị không thấy phạm tội là phạm tội, một vị không chấp nhận phát lộ tội phạm đúng pháp.
Yo ca accayaṃ accayato na passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ nappaṭiggaṇhāti—
Này các Tỷ-kheo, hai vị Tỷ-kheo này là ngu si.
ime kho, bhikkhave, dve bālā.
Này các Tỷ-kheo, hai Tỷ-kheo này là có trí,
Dveme, bhikkhave, paṇḍitā.
một vị thấy phạm tội, một vị chấp nhận phát lộ tội phạm đúng pháp.
Yo ca accayaṃ accayato passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ paṭiggaṇhāti—
Này các Tỷ- kheo, hai Tỷ-kheo này là có trí.
ime kho, bhikkhave, dve paṇḍitā.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, để làm hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên tại hội trường Sudhamma, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ này:
Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo sudhammāyaṃ sabhāyaṃ deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi:
Hãy nhiếp phục phẫn nộ,
Giữ tình bạn không phai,
Không đáng mắng, chớ mắng,
Không nên nói hai lưỡi,
Phẫn nộ quăng người ác,
Như đá rơi vực thẳm.
‘Kodho vo vasamāyātu,
Mā ca mittehi vo jarā;
Agarahiyaṃ mā garahittha,
Mā ca bhāsittha pesuṇaṃ;
Atha pāpajanaṃ kodho,
Pabbatovābhimaddatī’”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt