Tương Ưng Bộ 12.24
Saṃyutta Nikāya 12.24
3. Phẩm Mười Lực
3. Dasabalavagga
Ngoại Ðạo
Aññatitthiyasutta
1) Trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm).
Rājagahe viharati veḷuvane.
2) Tôn giả Sāriputta vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Vương Xá để khất thực.
Atha kho āyasmā sāriputto pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi.
3) Rồi Tôn giả Sāriputta suy nghĩ:
Atha kho āyasmato sāriputtassa etadahosi:
“Thật là quá sớm để vào Vương Xá khất thực. Ta hãy đi đến vườn của các du sĩ ngoại đạo”.
“atippago kho tāva rājagahe piṇḍāya carituṃ. Yannūnāhaṃ yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkameyyan”ti.
4) Rồi Tôn giả Sāriputta đi đến vườn của các du sĩ ngoại đạo; sau khi đến, nói lên với những du sĩ ngoại đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, Tôn giả liền ngồi xuống một bên. Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Tôn giả Sāriputta đang ngồi xuống một bên:
Atha kho āyasmā sāriputto yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ sāriputtaṃ te aññatitthiyā paribbājakā etadavocuṃ:
5) “Này Hiền giả Sāriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm.
“Santāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti.
Này Hiền giả Sāriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm.
Santi panāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā paraṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti.
Này Hiền giả Sāriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm và do người khác làm.
Santāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkatañca paraṅkatañca dukkhaṃ paññapenti.
Này Hiền giả Sāriputta, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh.
Santi panāvuso sāriputta, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhaṃ paññapenti.
6) Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, Sa-môn Gotama thuyết như thế nào, tuyên bố như thế nào?
Idha, panāvuso sāriputta, samaṇo gotamo kiṃvādī kimakkhāyī?
Và chúng tôi trả lời như thế nào để đáp đúng lời Sa-môn Gotama tuyên bố; chúng tôi không xuyên tạc Sa-môn Gotama không đúng sự thực. Pháp chúng tôi trả lời là thuận pháp; và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
Kathaṃ byākaramānā ca mayaṃ vuttavādino ceva samaṇassa gotamassa assāma, na ca samaṇaṃ gotamaṃ abhūtena abbhācikkheyyāma, dhammassa cānudhammaṃ byākareyyāma, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyyā”ti?
7) “Chư Hiền giả, Thế Tôn đã nói khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì?
“Paṭiccasamuppannaṃ kho, āvuso, dukkhaṃ vuttaṃ bhagavatā. Kiṃ paṭicca?
Do duyên xúc.
Phassaṃ paṭicca.
Nói như vậy là đáp đúng lời Thế Tôn tuyên bố, không xuyên tạc Thế Tôn không đúng sự thật, pháp được trả lời là thuận pháp, và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
Iti vadaṃ vuttavādī ceva bhagavato assa, na ca bhagavantaṃ abhūtena abbhācikkheyya, dhammassa cānudhammaṃ byākareyya, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyya.
8) Ở đây, này chư Hiền, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm; khổ ấy chính do duyên xúc.
Tatrāvuso, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm; khổ ấy chính do duyên xúc.
Yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā paraṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm và do người khác làm; khổ ấy chính do duyên xúc.
Yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkatañca paraṅkatañca dukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh; khổ ấy chính do duyên xúc.
Yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.
9) Ở đây, này chư Hiền, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra.
Tatrāvuso, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra.
Yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā paraṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm và do người khác làm. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra.
Yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkatañca paraṅkatañca dukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm và không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra”.
Yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjatī”ti.
10) Tôn giả Ānanda nghe câu chuyện giữa Tôn giả Sāriputta với các du sĩ ngoại đạo ấy.
Assosi kho āyasmā ānando āyasmato sāriputtassa tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ imaṃ kathāsallāpaṃ.
11) Rồi Tôn giả Ānanda, đi khất thực ở Vương Xá xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho āyasmā ānando rājagahe piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda đem tất cả câu chuyện xảy ra giữa Tôn giả Sāriputta và các du sĩ ngoại đạo trình bày lên Thế Tôn.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando yāvatako āyasmato sāriputtassa tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ ahosi kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi.
12) “Lành thay, lành thay, này Ānanda! Sāriputta trả lời như vậy là trả lời một cách chơn chánh.
“Sādhu sādhu, ānanda, yathā taṃ sāriputto sammā byākaramāno byākareyya.
Này Ānanda, Ta nói rằng khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì?
Paṭiccasamuppannaṃ kho, ānanda, dukkhaṃ vuttaṃ mayā. Kiṃ paṭicca?
Do duyên xúc.
Phassaṃ paṭicca.
Nói như vậy là đáp đúng lời Ta tuyên bố, không xuyên tạc Ta không đúng sự thật, và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn, cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
Iti vadaṃ vuttavādī ceva me assa, na ca maṃ abhūtena abbhācikkheyya, dhammassa cānudhammaṃ byākareyya, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyya.
13) Ở đây, này Ānanda, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm, khổ ấy chính do duyên xúc.
Tatrānanda, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm, và không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh; khổ ấy chính do duyên xúc.
Yepi te ...pe... yepi te ...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.
14) Ở đây, này Ānanda, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc, sự kiện như vậy không xảy ra.
Tatrānanda, yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm, không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh, họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra.
Yepi te ...pe... yepi te ...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
15) Này Ānanda, một thời Ta trú ở Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Ekamidāhaṃ, ānanda, samayaṃ idheva rājagahe viharāmi veḷuvane kalandakanivāpe.
16) Rồi này Ānanda, vào buổi sáng Ta đắp y, cầm y bát đi vào Vương Xá để khất thực.
Atha khvāhaṃ, ānanda, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisiṃ.
17) Rồi này Ānanda, Ta suy nghĩ như sau: ‘Thật là quá sớm đi vào Vương Xá để khất thực. Vậy Ta hãy đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo’.
Tassa mayhaṃ, ānanda, etadahosi: ‘atippago kho tāva rājagahe piṇḍāya carituṃ. Yannūnāhaṃ yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkameyyan’ti.
18) Rồi này Ānanda, Ta đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo; sau khi đến Ta nói lên với những du sĩ ngoại đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, Ta ngồi xuống một bên. Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Ta đang ngồi một bên:
Atha khvāhaṃ, ānanda, yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ sammodiṃ. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃ. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho maṃ, ānanda, te aññatitthiyā paribbājakā etadavocuṃ:
19) ‘Này Hiền giả Gotama, có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm.
‘Santāvuso gotama, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti.
Này Hiền giả Gotama, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do người khác làm.
Santi panāvuso gotama, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā paraṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti.
Này Hiền giả Gotama, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm và do người khác làm.
Santāvuso gotama, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkatañca paraṅkatañca dukkhaṃ paññapenti.
Nay Hiền giả Gotama, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm và không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh.
Santi panāvuso gotama, eke samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhaṃ paññapenti.
20) Ở đây, Tôn giả Gotama thuyết như thế nào?
Idha no āyasmā gotamo kiṃvādī kimakkhāyī?
Chúng tôi trả lời như thế nào để đáp đúng lời Tôn giả Gotama tuyên bố; chúng tôi không xuyên tạc Tôn giả Gotama không đúng sự thật; pháp chúng tôi trả lời là thuận pháp và một vị đồng pháp nào muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích?’
Kathaṃ byākaramānā ca mayaṃ vuttavādino ceva āyasmato gotamassa assāma, na ca āyasmantaṃ gotamaṃ abhūtena abbhācikkheyyāma, dhammassa cānudhammaṃ byākareyyāma, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyyā’ti?
21) Khi được nói vậy, này Ānanda, Ta nói với các du sĩ ngoại đạo ấy:
Evaṃ vuttāhaṃ, ānanda, te aññatitthiye paribbājake etadavocaṃ:
‘Này chư Hiền, Ta đã nói khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì?
‘paṭiccasamuppannaṃ kho, āvuso, dukkhaṃ vuttaṃ mayā. Kiṃ paṭicca?
Do duyên xúc.
Phassaṃ paṭicca.
Nói như vậy là đáp đúng lời Ta tuyên bố, không xuyên tạc Ta không đúng sự thật; pháp được trả lời là thuận pháp; và một vị đồng pháp nào có muốn cật vấn cũng không tìm được lý do để chỉ trích.
Iti vadaṃ vuttavādī ceva me assa, na ca maṃ abhūtena abbhācikkheyya, dhammassa cānudhammaṃ byākareyya, na ca koci sahadhammiko vādānupāto gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyyāti.
22) Ở đây, chư Hiền giả, có những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ do tự mình làm; khổ ấy chính do duyên xúc.
Tatrāvuso, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.
Có những Sa-môn, Bà-la-môn nào... (như trên)... Có những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp, tuyên bố khổ không do tự mình làm và không do người khác làm, khổ do tự nhiên sanh; khổ ấy chính do duyên xúc.
Yepi te ...pe... yepi te ...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhaṃ paññapenti tadapi phassapaccayā.
23) Ở đây, chư Hiền giả, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp tuyên bố khổ do tự mình làm; họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc, sự kiện như vậy không xảy ra.
Tatrāvuso, ye te samaṇabrāhmaṇā kammavādā sayaṅkataṃ dukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
Những Sa-môn, Bà-la-môn... (như trên)... Những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương về nghiệp tuyên bố khổ không do tự mình làm, không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh. Họ chắc chắn có thể tự cảm thọ không cần đến xúc; sự kiện như vậy không xảy ra.
Yepi te ...pe... yepi te ...pe... yepi te samaṇabrāhmaṇā kammavādā asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhaṃ paññapenti, te vata aññatra phassā paṭisaṃvedissantīti netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’”ti.
24) “Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
“Acchariyaṃ bhante, abbhutaṃ bhante.
Làm sao tất cả nghĩa được nói chỉ trong một câu.
Yatra hi nāma ekena padena sabbo attho vutto bhavissati.
Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa này được nói rộng ra, nghĩa này sẽ sâu thẳm và có vẻ được xem là sâu thẳm”.
Siyā nu kho, bhante, esevattho vitthārena vuccamāno gambhīro ceva assa gambhīrāvabhāso cā”ti?
25) “Vậy này Ānanda, Ông hãy trình bày nghĩa ấy ở đây”.
“Tena hānanda, taññevettha paṭibhātū”ti.
26) “Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con:
“Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ:
‘Này Hiền giả Ānanda, già, chết lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?’
‘jarāmaraṇaṃ, āvuso ānanda, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavan’ti?
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau:
Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ:
‘Già, chết, thưa các Tôn giả, lấy sanh làm nhân, lấy sanh tập khởi, lấy sanh tác sanh, lấy sanh làm hiện hữu’.
‘jarāmaraṇaṃ kho, āvuso, jātinidānaṃ jātisamudayaṃ jātijātikaṃ jātipabhavan’ti.
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ.
27) Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con:
Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ:
‘Này Hiền giả Ānanda, sanh lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?’.
‘jāti panāvuso ānanda, kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā’ti?
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời:
Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ:
‘Sanh, thưa các Tôn giả, lấy hữu làm nhân, lấy hữu tập khởi, lấy hữu tác sanh, lấy hữu làm hiện hữu’.
‘jāti kho, āvuso, bhavanidānā bhavasamudayā bhavajātikā bhavappabhavā’ti.
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ.
28) Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con:
Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ:
‘Này Hiền giả Ānanda, hữu lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?’.
‘bhavo panāvuso ānanda, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo’ti?
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau:
Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ:
‘Hữu, thưa các Tôn giả, lấy thủ làm nhân, lấy thủ tập khởi, lấy thủ tác sanh, lấy thủ làm hiện hữu’.
‘bhavo kho, āvuso, upādānanidāno upādānasamudayo upādānajātiko upādānappabhavo’ti.
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy.
Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ.
29-31) Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con:
Sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ—
Này Hiền giả Ānanda, thủ lấy gì làm nhân...
upādānaṃ panāvuso ...pe...
ái lấy gì làm nhân...
taṇhā panāvuso ...pe...
thọ lấy gì làm nhân... (như trên)..
vedanā panāvuso ...pe...
Bạch Thế Tôn, nếu họ hỏi con:
sace maṃ, bhante, evaṃ puccheyyuṃ:
‘Này Hiền giả Ānanda, xúc lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?’.
‘phasso panāvuso ānanda, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo’ti?
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau:
Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyaṃ:
‘Xúc, thưa các Hiền giả, lấy sáu xứ làm nhân, lấy sáu xứ tập khởi, lấy sáu xứ tác sanh, lấy sáu xứ làm hiện hữu’.
‘phasso kho, āvuso, saḷāyatananidāno saḷāyatanasamudayo saḷāyatanajātiko saḷāyatanappabhavo’ti.
‘Thưa các Hiền giả, do sự ly tham, đoạn diệt hoàn toàn các xúc xứ, xúc được đoạn diệt.
‘Channaṃ tveva, āvuso, phassāyatanānaṃ asesavirāganirodhā phassanirodho;
Do xúc diệt, thọ diệt;
phassanirodhā vedanānirodho;
do thọ diệt, ái diệt;
vedanānirodhā taṇhānirodho;
do ái diệt, thủ diệt;
taṇhānirodhā upādānanirodho;
do thủ diệt, hữu diệt;
upādānanirodhā bhavanirodho;
do hữu diệt, sanh diệt;
bhavanirodhā jātinirodho;
do sanh diệt, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt.
jātinirodhā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti.
Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này’.
Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’ti.
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như vậy”.
Evaṃ puṭṭhohaṃ, bhante, evaṃ byākareyyan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt