Tương Ưng Bộ 12.49
Saṃyutta Nikāya 12.49
5. Phẩm Gia Chủ - Thứ Năm
5. Gahapativagga
Thánh Ðệ Tử (1)
Ariyasāvakasutta
Tại Sāvatthī.
Sāvatthiyaṃ viharati.
“Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không có suy nghĩ như sau:
“Na, bhikkhave, sutavato ariyasāvakassa evaṃ hoti: ‘kiṃ nu kho—
Do cái gì có mặt, cái gì hiện hữu? Do cái gì sanh khởi, cái gì sanh khởi?
kismiṃ sati kiṃ hoti, kissuppādā kiṃ uppajjati?
Do cái gì có mặt, các hành hiện hữu? Do cái gì có mặt, các thức hiện hữu? Do cái gì có mặt, danh sắc hiện hữu? Do cái gì có mặt, sáu xứ hiện hữu? Do cái gì có mặt, xúc hiện hữu? Do cái gì có mặt, thọ hiện hữu? Do cái gì có mặt, ái hiện hữu? Do cái gì có mặt, thủ hiện hữu? Do cái gì có mặt, hữu hiện hữu? Do cái gì có mặt, sanh hiện hữu? Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu?’
Kismiṃ sati saṅkhārā honti, kismiṃ sati viññāṇaṃ hoti, kismiṃ sati nāmarūpaṃ hoti, kismiṃ sati saḷāyatanaṃ hoti, kismiṃ sati phasso hoti, kismiṃ sati vedanā hoti, kismiṃ sati taṇhā hoti, kismiṃ sati upādānaṃ hoti, kismiṃ sati bhavo hoti, kismiṃ sati jāti hoti, kismiṃ sati jarāmaraṇaṃ hotī’ti?
Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không duyên người khác, ở đây có trí như sau:
Atha kho, bhikkhave, sutavato ariyasāvakassa aparappaccayā ñāṇamevettha hoti:
‘Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh khởi, cái kia sanh khởi.
‘imasmiṃ sati idaṃ hoti, imassuppādā idaṃ uppajjati.
Do duyên vô minh nên có hành.
Avijjāya sati saṅkhārā honti;
Do duyên hành nên có thức.
saṅkhāresu sati viññāṇaṃ hoti;
Do duyên thức nên có danh sắc.
viññāṇe sati nāmarūpaṃ hoti;
Do duyên danh sắc nên có sáu xứ.
nāmarūpe sati saḷāyatanaṃ hoti;
Do duyên sáu xứ nên có xúc.
saḷāyatane sati phasso hoti;
Do duyên xúc nên có thọ.
phasse sati vedanā hoti;
Do duyên thọ nên có ái.
vedanāya sati taṇhā hoti;
Do duyên ái nên có thủ.
taṇhāya sati upādānaṃ hoti;
Do duyên thủ nên có hiện hữu.
upādāne sati bhavo hoti;
Do duyên hiện hữu nên có sanh.
bhave sati jāti hoti;
Do duyên sanh nên có già chết.
jātiyā sati jarāmaraṇaṃ hotī’ti.
Vị ấy hiểu biết: ‘Như vậy là sự sanh khởi của thế giới này’.
So evaṃ pajānāti: ‘evamayaṃ loko samudayatī’ti.
Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không có suy nghĩ như sau:
Na, bhikkhave, sutavato ariyasāvakassa evaṃ hoti: ‘kiṃ nu kho—
Do cái gì không có mặt, cái gì không hiện hữu? Do cái gì diệt, cái gì diệt?
kismiṃ asati kiṃ na hoti, kissa nirodhā kiṃ nirujjhati?
Do cái gì không có mặt, hành không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, thức không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, danh sắc không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, sáu xứ không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, xúc không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, thọ không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, ái không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, thủ không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, hữu không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, sanh không hiện hữu? Do cái gì không có mặt, già chết không hiện hữu?’.
Kismiṃ asati saṅkhārā na honti, kismiṃ asati viññāṇaṃ na hoti, kismiṃ asati nāmarūpaṃ na hoti, kismiṃ asati saḷāyatanaṃ na hoti, kismiṃ asati phasso na hoti, kismiṃ asati vedanā na hoti, kismiṃ asati taṇhā na hoti, kismiṃ asati upādānaṃ na hoti, kismiṃ asati bhavo na hoti, kismiṃ asati jāti na hoti, kismiṃ asati jarāmaraṇaṃ na hotī’ti?
Này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử không duyên theo người khác, ở đây có trí như sau:
Atha kho, bhikkhave, sutavato ariyasāvakassa aparappaccayā ñāṇamevettha hoti:
‘Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu. Do cái này diệt, cái kia diệt.
‘imasmiṃ asati idaṃ na hoti, imassa nirodhā idaṃ nirujjhati.
Do vô minh không có mặt, các hành không hiện hữu.
Avijjāya asati saṅkhārā na honti;
Do các hành không có mặt, thức không hiện hữu.
saṅkhāresu asati viññāṇaṃ na hoti;
Do thức không có mặt, danh sắc không hiện hữu.
viññāṇe asati nāmarūpaṃ na hoti;
Do danh sắc không có mặt, sáu xứ không hiện hữu. Do sáu xứ không có mặt, xúc không hiện hữu. Do xúc không có mặt, thọ không hiện hữu. Do thọ không có mặt, ái không hiện hữu. Do ái không có mặt, thủ không hiện hữu. Do thủ không có mặt, hữu không hiện hữu.
nāmarūpe asati saḷāyatanaṃ na hoti ...pe... bhavo na hoti ...
Do hữu không có mặt, sanh không hiện hữu.
jāti na hoti ...
Do sanh không có mặt, già chết không hiện hữu’.
jātiyā asati jarāmaraṇaṃ na hotī’ti.
Vị ấy hiểu biết: ‘Như vậy là sự đoạn diệt của thế giới này’.
So evaṃ pajānāti: ‘evamayaṃ loko nirujjhatī’ti.
Và này các Tỷ-kheo, vì rằng vị Thánh đệ tử như thật biết sự tập khởi và sự đoạn diệt của thế gian như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử này được gọi là kiến đạt... (như trên)... đã đứng gõ cửa bất tử”.
Yato kho, bhikkhave, ariyasāvako evaṃ lokassa samudayañca atthaṅgamañca yathābhūtaṃ pajānāti, ayaṃ vuccati, bhikkhave, ariyasāvako diṭṭhisampanno itipi ...pe... amatadvāraṃ āhacca tiṭṭhati itipī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt