Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 12.51

Tương Ưng Bộ 12.51
Saṃyutta Nikāya 12.51

6. Phẩm Cây
6. Dukkhavagga

Tư Lường
Parivīmaṃsanasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp-Cô-Ðộc).
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. “
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi: “bhikkhavo”ti.

Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:

“Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo tư lường, phải tư lường như thế nào để chơn chánh diệt khổ một cách trọn vẹn?”
“Kittāvatā nu kho, bhikkhave, bhikkhu parivīmaṃsamāno parivīmaṃseyya sabbaso sammā dukkhakkhayāyā”ti?

“Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm điểm tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn nói lên ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.”
“Bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā bhagavaṃnettikā bhagavaṃpaṭisaraṇā. Sādhu vata, bhante, bhagavantaṃyeva paṭibhātu etassa bhāsitassa attho. Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī”ti.

“Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói”.
“Tena hi, bhikkhave, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:

“Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đang tư lường, tư lường như sau:
“Idha, bhikkhave, bhikkhu parivīmaṃsamāno parivīmaṃsati:

‘Sự đau khổ nhiều loại và đa dạng này khởi lên trên đời như già và chết;
‘yaṃ kho idaṃ anekavidhaṃ nānappakārakaṃ dukkhaṃ loke uppajjati jarāmaraṇaṃ;

sự đau khổ này lấy gì làm nhân, lấy gì tập khởi, lấy gì tác sanh, lấy gì làm hiện hữu?
idaṃ nu kho dukkhaṃ kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ?

Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu? Do cái gì không có mặt, già chết không hiện hữu?’
Kismiṃ sati jarāmaraṇaṃ hoti, kismiṃ asati jarāmaraṇaṃ na hotī’ti?

Tư lường như vậy, vị ấy biết như sau:
So parivīmaṃsamāno evaṃ pajānāti:

‘Sự đau khổ nhiều loại và đa dạng này khởi lên trên đời như già và chết, sự đau khổ này lấy sanh làm nhân, lấy sanh làm tập khởi, lấy sanh làm tác sanh, lấy sanh làm hiện hữu.
‘yaṃ kho idaṃ anekavidhaṃ nānappakārakaṃ dukkhaṃ loke uppajjati jarāmaraṇaṃ, idaṃ kho dukkhaṃ jātinidānaṃ jātisamudayaṃ jātijātikaṃ jātippabhavaṃ.

Do sanh có mặt, già chết hiện hữu. Do sanh không có mặt, già chết không hiện hữu’.
Jātiyā sati jarāmaraṇaṃ hoti, jātiyā asati jarāmaraṇaṃ na hotī’ti.

Và vị ấy biết già chết, biết già chết tập khởi, biết già chết đoạn diệt, và vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến già chết đoạn diệt. Do thực hành như vậy, vị ấy trở thành vị Tùy pháp hành.
So jarāmaraṇañca pajānāti, jarāmaraṇasamudayañca pajānāti, jarāmaraṇanirodhañca pajānāti, yā ca jarāmaraṇanirodhasāruppagāminī paṭipadā tañca pajānāti, tathā paṭipanno ca hoti anudhammacārī;

Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là vị Tỷ-kheo đã thực hành một cách trọn vẹn để chơn chánh đoạn tận khổ đau và đoạn diệt già chết.
ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu sabbaso sammā dukkhakkhayāya paṭipanno jarāmaraṇanirodhāya.

Tư lường thêm nữa, vị ấy tư lường như sau:
Athāparaṃ parivīmaṃsamāno parivīmaṃsati:

‘Còn sanh này, do gì làm nhân? Khi có hữu thì có sanh? Không có hữu thì sanh không có?’
‘jāti panāyaṃ kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā, kismiṃ sati jāti hoti, kismiṃ asati jāti na hotī’ti?

Trong khi vị ấy tư lường, vị ấy hiểu như sau:
So parivīmaṃsamāno evaṃ pajānāti:

‘Hữu do nhân Sanh;
‘jāti bhavanidānā bhavasamudayā bhavajātikā bhavappabhavā;

Khi có hữu, thì sanh có mặt. Khi không có hữu thì sanh không có’.
bhave sati jāti hoti, bhave asati jāti na hotī’ti.

Và vị ấy biết các Sanh, biết các Sanh tập khởi, biết các Sanh đoạn diệt, và vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến các Sanh đoạn diệt. Do thực hành như vậy, vị ấy trở thành vị Tùy pháp hành.
So jātiñca pajānāti, jātisamudayañca pajānāti, jātinirodhañca pajānāti, yā ca jātinirodhasāruppagāminī paṭipadā tañca pajānāti, tathā paṭipanno ca hoti anudhammacārī;

Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là vị Tỷ-kheo đã thực hành một cách trọn vẹn để chơn chánh đoạn tận khổ đau và đoạn diệt Sanh.
ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu sabbaso sammā dukkhakkhayāya paṭipanno jātinirodhāya.

Tư lường thêm nữa, vị ấy tư lường như sau:
Athāparaṃ parivīmaṃsamāno parivīmaṃsati:

‘Còn hữu này, do cái gì làm nhân?
‘bhavo panāyaṃ kiṃnidāno ...pe...

Còn thủ này, do cái gì làm nhân?
upādānaṃ panidaṃ kiṃnidānaṃ ...

Còn ái này, do cái gì làm nhân?
taṇhā panāyaṃ kiṃnidānā ...

Còn thọ này, do cái gì làm nhân?
vedanā ...

Còn xúc này...
phasso ...

Còn sáu xứ này...
saḷāyatanaṃ panidaṃ kiṃnidānaṃ ...

Còn danh sắc này...
nāmarūpaṃ panidaṃ ...

Còn thức này...
viññāṇaṃ panidaṃ ...

Còn các hành này, do cái gì làm nhân, cái gì tập khởi, cái gì tác sanh, cái gì làm hiện hữu?
saṅkhārā panime kiṃnidānā kiṃsamudayā kiṃjātikā kiṃpabhavā;

Do cái gì có mặt, các hành hiện hữu? Do cái gì không có mặt các hành không hiện hữu?’
kismiṃ sati saṅkhārā honti, kismiṃ asati saṅkhārā na hontī’ti?

Tư lường như vậy, vị ấy biết như sau:
So parivīmaṃsamāno evaṃ pajānāti:

‘Các hành lấy vô minh làm nhân, lấy vô minh làm tập khởi, lấy vô minh làm tác sanh, lấy vô minh làm hiện hữu.
‘saṅkhārā avijjānidānā avijjāsamudayā avijjājātikā avijjāpabhavā;

Do vô minh có mặt, các hành hiện hữu. Do vô minh không có mặt, các hành không hiện hữu’.
avijjāya sati saṅkhārā honti, avijjāya asati saṅkhārā na hontī’ti.

Và vị ấy biết các hành, biết các hành tập khởi, biết các hành đoạn diệt, và vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến các hành đoạn diệt. Do thực hành như vậy, vị ấy trở thành vị Tùy pháp hành.
So saṅkhāre ca pajānāti, saṅkhārasamudayañca pajānāti, saṅkhāranirodhañca pajānāti, yā ca saṅkhāranirodhasāruppagāminī paṭipadā tañca pajānāti, tathā paṭipanno ca hoti anudhammacārī;

Này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là vị Tỷ-kheo đã thực hành một cách trọn vẹn để chơn chánh đoạn tận khổ đau và đoạn diệt các hành.
ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu sabbaso sammā dukkhakkhayāya paṭipanno saṅkhāranirodhāya.

Này các Tỷ-kheo, nếu người nào bị vô minh chi phối, dự tính làm phước hành, thức (của người ấy) đi đến phước.
Avijjāgato yaṃ, bhikkhave, purisapuggalo puññañce saṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, puññūpagaṃ hoti viññāṇaṃ.

Nếu người ấy dự tính làm phi phước hành, thức (của người ấy) đi đến phi phước.
Apuññañce saṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, apuññūpagaṃ hoti viññāṇaṃ.

Nếu người ấy dự tính làm bất động hành, thức (của người ấy) đi đến bất động.
Āneñjañce saṅkhāraṃ abhisaṅkharoti āneñjūpagaṃ hoti viññāṇaṃ.

Này các Tỷ-kheo, khi nào vị Tỷ-kheo đoạn tận vô minh, minh được sanh khởi. Vị ấy do vô minh đoạn tận, minh sanh khởi, không dự tính làm phước hành, không dự tính làm phi phước hành, không dự tính làm bất động hành.
Yato kho, bhikkhave, bhikkhuno avijjā pahīnā hoti vijjā uppannā, so avijjāvirāgā vijjuppādā neva puññābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti na apuññābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti na āneñjābhisaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti.

Không có dự tính, không có dụng ý, vị ấy không chấp thủ một sự gì ở đời.
Anabhisaṅkharonto anabhisañcetayanto na kiñci loke upādiyati;

Không chấp thủ, vị ấy không sợ hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn toàn tịch tịnh.
anupādiyaṃ na paritassati, aparitassaṃ paccattaññeva parinibbāyati.

Vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.

Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy biết lạc thọ ấy vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ.
So sukhañce vedanaṃ vedayati, sā aniccāti pajānāti, anajjhositāti pajānāti, anabhinanditāti pajānāti.

Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy biết khổ thọ vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ.
Dukkhañce vedanaṃ vedayati, sā aniccāti pajānāti, anajjhositāti pajānāti, anabhinanditāti pajānāti.

Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết thọ ấy vô thường, vị ấy biết không nên tham đắm, vị ấy biết không nên hoan hỷ.
Adukkhamasukhañce vedanaṃ vedayati, sā aniccāti pajānāti, anajjhositāti pajānāti, anabhinanditāti pajānāti.

Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly.
So sukhañce vedanaṃ vedayati, visaṃyutto naṃ vedayati.

Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly.
Dukkhañce vedanaṃ vedayati, visaṃyutto naṃ vedayati.

Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, thọ ấy được cảm giác với niệm thoát ly.
Adukkhamasukhañce vedanaṃ vedayati, visaṃyutto naṃ vedayati.

Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết: “Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân”. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: “Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng”.
So kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti, jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti.

Vị ấy biết: “Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được bỏ qua một bên”.
Kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni anabhinanditāni sītībhavissanti, sarīrāni avasissantīti pajānāti.

Này các Tỷ-kheo, ví như một người từ trong lò nung của người thợ gốm lấy ra một cái ghè nóng và đặt trên một khoảng đất bằng phẳng để sức nóng ở đấy được nguội dần, và các miếng sành vụn được gạt bỏ một bên.
Seyyathāpi, bhikkhave, puriso kumbhakārapākā uṇhaṃ kumbhaṃ uddharitvā same bhūmibhāge paṭisisseyya. Tatra yāyaṃ usmā sā tattheva vūpasameyya, kapallāni avasisseyyuṃ.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân, vị ấy biết: “Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của thân”. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng, vị ấy biết: “Ta cảm giác một cảm thọ tận cùng của sinh mạng”.
Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno kāyapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti, jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayamāno jīvitapariyantikaṃ vedanaṃ vedayāmīti pajānāti.

Vị ấy biết: “Sau khi thân hoại mạng chung, ở đây tất cả những cảm thọ không làm cho có hỷ lạc, sẽ trở thành vắng lặng, cái thân được bỏ qua một bên”.
Kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā idheva sabbavedayitāni anabhinanditāni sītībhavissanti, sarīrāni avasissantīti pajānāti.

Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave,

Vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc có dự tính làm các phước hành, hay có dự tính làm các phi phước hành, hay có dự tính làm các bất động hành?”
api nu kho khīṇāsavo bhikkhu puññābhisaṅkhāraṃ vā abhisaṅkhareyya apuññābhisaṅkhāraṃ vā abhisaṅkhareyya āneñjābhisaṅkhāraṃ vā abhisaṅkhareyyā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu các hành không có mặt một cách trọn vẹn, do các hành đoạn diệt, thời thức có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana saṅkhāresu asati, saṅkhāranirodhā api nu kho viññāṇaṃ paññāyethā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu thức không có mặt một cách trọn vẹn, do thức đoạn diệt, thời danh sắc có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana viññāṇe asati, viññāṇanirodhā api nu kho nāmarūpaṃ paññāyethā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu danh sắc không có mặt một cách trọn vẹn, do danh sắc đoạn diệt, thời sáu xứ có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana nāmarūpe asati, nāmarūpanirodhā api nu kho saḷāyatanaṃ paññāyethā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu sáu xứ không có mặt một cách trọn vẹn, do sáu xứ đoạn diệt, thời xúc có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana saḷāyatane asati, saḷāyatananirodhā api nu kho phasso paññāyethā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu xúc không có mặt một cách trọn vẹn, do xúc đoạn diệt, thời thọ có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana phasse asati, phassanirodhā api nu kho vedanā paññāyethā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu thọ không có mặt một cách trọn vẹn, do thọ đoạn diệt, thời ái có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana vedanāya asati, vedanānirodhā api nu kho taṇhā paññāyethā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu ái không có mặt một cách trọn vẹn, do ái đoạn diệt, thời thủ có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana taṇhāya asati, taṇhānirodhā api nu kho upādānaṃ paññāyethā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu thủ không có mặt một cách trọn vẹn, do thủ đoạn diệt, thời hữu có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana upādāne asati, upādānanirodhā api nu kho bhavo paññāyethā”ti.

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu hữu không có mặt một cách trọn vẹn, do hữu đoạn diệt, thời sanh có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana bhave asati, bhavanirodhā api nu kho jāti paññāyethā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Hay nếu sanh không có mặt một cách trọn vẹn, do sanh đoạn diệt, thời già chết có hiện hành không?”
“Sabbaso vā pana jātiyā asati, jātinirodhā api nu kho jarāmaraṇaṃ paññāyethā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṃ, bhante”.

“Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo! Phải là như vậy, này các Tỷ-kheo! Không thể khác vậy.
“Sādhu sādhu, bhikkhave, evametaṃ, bhikkhave, netaṃ aññathā.

Hãy tin ở Ta, này các Tỷ-kheo! Hãy quyết định, chớ có nghi ngờ, chớ có phân vân!
Saddahatha me taṃ, bhikkhave, adhimuccatha, nikkaṅkhā ettha hotha nibbicikicchā.

Ðây là khổ được đoạn tận.”
Esevanto dukkhassā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt