Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 15.8

Tương Ưng Bộ 15.8
Saṃyutta Nikāya 15.8

Phẩm Thứ Nhất
1. Paṭhamavagga

Sông Hằng
Gaṅgāsutta

Trú ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm).
Rājagahe viharati veḷuvane.

Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn ... Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho aññataro brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca:

“Có bao nhiêu kiếp, bạch Thế Tôn đã đi qua, đã vượt qua?”
“kīvabahukā nu kho, bho gotama, kappā abbhatītā atikkantā”ti?

“Rất nhiều, này Bà-la-môn, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua.
“Bahukā kho, brāhmaṇa, kappā abbhatītā atikkantā.

Thật không dễ gì để có thể đếm chúng được, là ‘một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp, một vài trăm ngàn kiếp’.”
Te na sukarā saṅkhātuṃ: ‘ettakā kappā iti vā, ettakāni kappasatāni iti vā, ettakāni kappasahassāni iti vā, ettakāni kappasatasahassāni iti vā’”ti.

“Tôn giả Gotama có thể cho một ví dụ được không?”
“Sakkā pana, bho gotama, upamaṃ kātun”ti?

Đức Thế Tôn đáp: “Có thể được, này Bà-la-môn”.
“Sakkā, brāhmaṇā”ti bhagavā avoca.

“Ví như, này Bà-la-môn, sông Hằng này từ chỗ nguồn bắt đầu đến chỗ nó chảy nhập vào biển. Số cát nằm ở giữa chặng ấy, thật không dễ gì để có thể đếm chúng được là:
“Seyyathāpi, brāhmaṇa, yato cāyaṃ gaṅgā nadī pabhavati yattha ca mahāsamuddaṃ appeti, yā etasmiṃ antare vālikā sā na sukarā saṅkhātuṃ:

‘một số hột cát, là số trăm hột cát, là số ngàn hột cát, là số trăm ngàn hột cát’.
‘ettakā vālikā iti vā, ettakāni vālikasatāni iti vā, ettakāni vālikasahassāni iti vā, ettakāni vālikasatasahassāni iti vā’ti.

Nhiều hơn vậy, này Bà-la-môn, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua.
Tato bahutarā kho, brāhmaṇa, kappā abbhatītā atikkantā.

Thật không dễ gì có thể đếm chúng được, là ‘một số kiếp, một trăm kiếp, là một ngàn kiếp, là một số trăm ngàn kiếp’.
Te na sukarā saṅkhātuṃ: ‘ettakā kappā iti vā, ettakāni kappasatāni iti vā, ettakāni kappasahassāni iti vā, ettakāni kappasatasahassāni iti vā’ti.

Vì sao?
Taṃ kissa hetu?

Vô thỉ là luân hồi này, này Bà-la-môn.
Anamataggoyaṃ, brāhmaṇa, saṃsāro.

khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.
Pubbā koṭi na paññāyati avijjānīvaraṇānaṃ sattānaṃ taṇhāsaṃyojanānaṃ sandhāvataṃ saṃsarataṃ.

Cũng vậy, đã lâu ngày, này Bà-la-môn, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, và các mộ phần ngày một lớn lên.
Evaṃ dīgharattaṃ kho, brāhmaṇa, dukkhaṃ paccanubhūtaṃ tibbaṃ paccanubhūtaṃ byasanaṃ paccanubhūtaṃ, kaṭasī vaḍḍhitā.

Cho đến như vậy, này Bà-la-môn, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.”
Yāvañcidaṃ, brāhmaṇa, alameva sabbasaṅkhāresu nibbindituṃ, alaṃ virajjituṃ, alaṃ vimuccitun”ti.

Ðược nghe nói vậy, Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, so brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!...
“abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama ...pe...

Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”
upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt