Tương Ưng Bộ 35.145
Saṃyutta Nikāya 35.145
14. Phẩm Devadaha
14. Devadahavagga
Ngoại Căn Do Nhân (3)
Bāhirānattahetusutta
“Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngã.
“Rūpā, bhikkhave, anattā.
Do nhân gì, do duyên gì khiến sắc khởi lên, cái ấy cũng vô ngã.
Yopi hetu, yopi paccayo rūpānaṃ uppādāya, sopi anattā.
Này các Tỷ-kheo, pháp do nhân vô ngã khởi lên, từ đâu có ngã được?
Anattasambhūtā, bhikkhave, rūpā kuto attā bhavissanti.
Thanh ...
Saddā ...
Hương ...
gandhā ...
Vị ...
rasā ...
Xúc ...
phoṭṭhabbā ...
Này các Tỷ-kheo, pháp là vô ngã.
dhammā anattā.
Do nhân gì, do duyên gì khiến pháp khởi lên, cái ấy cũng vô ngã.
Yopi hetu, yopi paccayo dhammānaṃ uppādāya, sopi anattā.
Này các Tỷ-kheo, pháp do nhân vô ngã khởi lên, từ đâu có ngã được?
Anattasambhūtā, bhikkhave, dhammā kuto attā bhavissanti.
Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán đối với các tiếng ... nhàm chán đối với các hương ... nhàm chán đối với các vị ... nhàm chán đối với các xúc ... nhàm chán đối với các pháp.
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako rūpesupi nibbindati, saddesupi ... gandhesupi ... rasesupi ... phoṭṭhabbesupi ... dhammesupi nibbindati.
Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí biết rằng: Ta đã giải thoát.
Nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.
Vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.”
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt