Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 44.8

Tương Ưng Bộ 44.8
Saṃyutta Nikāya 44.8

1. Phẩm Không Thuyết
1. Abyākatavagga

Vaccha (hay Trói buộc)
Vacchagottasutta

Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho vacchagotto paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.

Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta bạch Thế Tôn:
Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako bhagavantaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Gotama, thế giới có phải là thường còn?”
“kiṃ nu kho, bho gotama, sassato loko”ti?

“Này Vaccha, Ta không có trả lời: ‘Thế giới là thường còn’ ...
“Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, mayā: ‘sassato loko’ti ...pe....

“Thưa Tôn giả Gotama, ‘vậy Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’?”
“Kiṃ pana, bho gotama, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’”ti?

“Này Vaccha, Ta cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.”
“Etampi kho, vaccha, abyākataṃ mayā: ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’”ti.

“Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, thời trả lời như vầy:
“Ko nu kho, bho gotama, hetu, ko paccayo, yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti:

‘Thế giới là thường còn’ ... ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’?
‘sassato loko’ti vā ...pe... ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā?

Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, khi Tôn giả Gotama được hỏi như vậy, lại không trả lời:
Ko pana, bho gotama, hetu, ko paccayo, yena bhoto gotamassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti:

‘Thế giới là thường còn’ ... ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’?
‘sassato loko’tipi ...pe... ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī”ti?

“Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc.
“Aññatitthiyā kho, vaccha, paribbājakā rūpaṃ attato samanupassanti, rūpavantaṃ vā attānaṃ, attani vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ.

Họ quán thọ như là tự ngã ... quán tưởng ... quán các hành ...
Vedanaṃ attato samanupassanti ...pe... saññaṃ ...pe... saṅkhāre ...pe...

quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.
viññāṇaṃ attato samanupassanti, viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, attani vā viññāṇaṃ, viññāṇasmiṃ vā attānaṃ.

Do vậy, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, liền trả lời như vầy:
Tasmā aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti:

‘Thế giới là thường còn’ ... ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.
‘sassato loko’ti vā ...pe... ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā.

Như Lai, này Vaccha, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, quán sắc không phải là tự ngã, hay tự ngã không phải có sắc, hay sắc không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở trong sắc.
Tathāgato ca kho, vaccha, arahaṃ sammāsambuddho na rūpaṃ attato samanupassati, na rūpavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā rūpaṃ, na rūpasmiṃ vā attānaṃ.

Như Lai quán thọ không phải tự ngã ... quán tưởng ... quán các hành ...
Na vedanaṃ attato samanupassati ...pe... na saññaṃ ...pe... na saṅkhāre ...pe...

quán thức không phải là tự ngã, hay tự ngã không phải có thức, hay thức không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở trong thức.
na viññāṇaṃ attato samanupassati, na viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā viññāṇaṃ, na viññāṇasmiṃ vā attānaṃ.

Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, lại không trả lời như vầy:
Tasmā tathāgatassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti:

‘Thế giới là thường còn’ ... ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.”
‘sassato loko’tipi ...pe... ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī”ti.

Rồi du sĩ ngoại đạo Vacchagotta từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahāmoggallāna; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahāmoggallāna những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho vacchagotto paribbājako uṭṭhāyāsanā yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahāmoggallānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.

Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta nói với Tôn giả Mahāmoggallāna:
Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Moggallāna, có phải thế giới là thường còn?”
“kiṃ nu kho, bho moggallāna, sassato loko”ti?

“Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: ‘Thế giới là thường còn’.
“Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā: ‘sassato loko’ti ...pe....

“Thưa Tôn giả Moggallāna, vậy Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?”
“Kiṃ pana, bho moggallāna, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’”ti?

“Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.”
“Etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā: ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’”ti.

“Thưa Tôn giả Moggallāna, do nhân gì, do duyên gì, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, liền trả lời như vầy:
“Ko nu kho, bho moggallāna, hetu, ko paccayo, yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti:

‘Thế giới là thường còn’ ... ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’?
‘sassato loko’ti vā ...pe... ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā?

Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Moggallāna, Sa-môn Gotama khi được hỏi như vậy, lại không trả lời như vầy:
Ko pana, bho moggallāna, hetu, ko paccayo yena samaṇassa gotamassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti:

‘Thế giới là thường còn’ ... ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’?”
‘sassato loko’tipi ...pe... ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī”ti?

“Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc.
“Aññatitthiyā kho, vaccha, paribbājakā rūpaṃ attato samanupassanti, rūpavantaṃ vā attānaṃ, attani vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ.

Họ quán thọ ... quán tưởng ... quán các hành ...
Vedanaṃ attato samanupassanti ...pe... saññaṃ ...pe... saṅkhāre ...pe...

quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.
viññāṇaṃ attato samanupassanti, viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, attani vā viññāṇaṃ, viññāṇasmiṃ vā attānaṃ.

Do vậy, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, liền trả lời như vầy:
Tasmā aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti:

‘Thế giới là thường còn’ ... ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’.
‘sassato loko’ti vā ...pe... ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā.

Còn Như Lai, này Vaccha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, quán sắc không phải là tự ngã, hay tự ngã không phải có sắc, quán sắc không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở trong sắc.
Tathāgato ca kho, vaccha, arahaṃ sammāsambuddho na rūpaṃ attato samanupassati, na rūpavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā rūpaṃ, na rūpasmiṃ vā attānaṃ.

Như Lai quán thọ không phải là tự ngã ... quán tưởng không phải là tự ngã ... quán các hành không phải là tự ngã ...
Na vedanaṃ attato samanupassati ...pe... na saññaṃ ...pe... na saṅkhāre ...pe...

quán thức không phải là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.
na viññāṇaṃ attato samanupassati, na viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā viññāṇaṃ, na viññāṇasmiṃ vā attānaṃ.

Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, không có trả lời như vầy:
Tasmā tathāgatassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti:

‘Thế giới là thường còn’. ‘Hay thế giới là vô thường’. ‘Hay thế giới là hữu biên’. ‘Hay thế giới là vô biên’. ‘Hay sinh mạng và thân thể là một’. ‘Hay sinh mạng và thân thể là khác’. ‘Hay Như Lai có tồn tại sau khi chết’. ‘Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết’. ‘Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết’. ‘Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’?”
‘sassato loko’tipi, ‘asassato loko’tipi, ‘antavā loko’tipi, ‘anantavā loko’tipi, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīran’tipi, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīran’tipi, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī”ti.

“Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Moggallāna! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Moggallāna!
“Acchariyaṃ, bho moggallāna, abbhutaṃ, bho moggallāna.

Vì rằng, giữa Ðạo sư và nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú.
Yatra hi nāma satthu ca sāvakassa ca atthena attho byañjanena byañjanaṃ saṃsandissati, samessati, na virodhayissati, yadidaṃ aggapadasmiṃ.

Thưa Tôn giả Moggallāna, nay tôi đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến tôi hỏi về ý nghĩa này.
Idānāhaṃ, bho moggallāna, samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ apucchiṃ.

Sa-môn Gotama với những câu văn, với những lời văn đã trả lời về ý nghĩa này giống như Tôn giả Moggallāna.
Samaṇopi me gotamo etehi padehi etehi byañjanehi etamatthaṃ byākāsi, seyyathāpi bhavaṃ moggallāno.

Thật vi diệu thay, Tôn giả Moggallāna! Thật hy hữu thay, Tôn giả Moggallāna!
Acchariyaṃ, bho moggallāna, abbhutaṃ, bho moggallāna.

Vì rằng, giữa Ðạo sư và nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú”.
Yatra hi nāma satthu ca sāvakassa ca atthena attho byañjanena byañjanaṃ saṃsandissati samessati na virodhayissati, yadidaṃ aggapadasmin”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt