Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 7.14

Tương Ưng Bộ 7.14
Saṃyutta Nikāya 7.14

2. Phẩm Cư Sĩ
2. Upāsakavagga

Mahāsāla
Mahāsālasutta

Nhân duyên ở Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṃ.

Rồi một Bà-la-môn đại phú, dáng bộ tiều tụy, đắp y thô xấu, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm;
Atha kho aññataro brāhmaṇamahāsālo lūkho lūkhapāvuraṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi.

sau nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với vị Bà-la-môn đại phú đang ngồi xuống một bên:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho taṃ brāhmaṇamahāsālaṃ bhagavā etadavoca:

“Này Bà-la-môn, sao dáng bộ ông tiều tụy? Sao ông đắp y thô xấu?”
“kiṃ nu tvaṃ, brāhmaṇa, lūkho lūkhapāvuraṇo”ti?

“Thưa Tôn giả Gotama, ở đây bốn đứa con trai của con, chúng âm mưu với vợ của chúng, trục xuất con ra khỏi nhà”.
“Idha me, bho gotama, cattāro puttā. Te maṃ dārehi sampuccha gharā nikkhāmentī”ti.

“Vậy này Bà-la-môn, hãy đọc thuộc bài kệ này, và khi nào quần chúng hội họp trong thính đường và cả các người con cùng ngồi họp, hãy đọc lên bài kệ:
“Tena hi tvaṃ, brāhmaṇa, imā gāthāyo pariyāpuṇitvā sabhāyaṃ mahājanakāye sannipatite puttesu ca sannisinnesu bhāsassu:

‘Khi chúng sanh, tôi mừng
Tôi muốn chúng sinh thành.
Cùng vợ, chúng âm mưu,
Chống tôi và đuổi tôi,
Chẳng khác gì con chó,
Xua đuổi bầy heo lợn,
‘Yehi jātehi nandissaṃ,
yesañca bhavamicchisaṃ;
Te maṃ dārehi sampuccha,
sāva vārenti sūkaraṃ.

Ác độc và lỗ mãng,
Chúng gọi tôi: "Cha thân".
Chúng thật quỷ Dạ-xoa,
Ðội lốt là con tôi,
Và chúng trục xuất tôi,
Khi tôi đến tuổi già,
Asantā kira maṃ jammā,
tāta tātāti bhāsare;
Rakkhasā puttarūpena,
te jahanti vayogataṃ.

Như ngựa già suy nhược,
Bị tẩn xuất chuồng ăn.
Nay cha già bọn trẻ,
Phải ăn xin nhà người,
Assova jiṇṇo nibbhogo,
khādanā apanīyati;
Bālakānaṃ pitā thero,
parāgāresu bhikkhati.

Thà cho tôi cái gậy,
Hơn lũ con bất hiếu.
Với gậy, chận bò dữ,
Chận được loại chó dữ,
Daṇḍova kira me seyyo,
yañce puttā anassavā;
Caṇḍampi goṇaṃ vāreti,
atho caṇḍampi kukkuraṃ.

Chỗ tối dò an toàn,
Chỗ sâu, tìm chân đứng,
Với sức mạnh chiếc gậy,
Vấp ngã đứng dậy được.
Andhakāre pure hoti,
gambhīre gādhamedhati;
Daṇḍassa ānubhāvena,
khalitvā patitiṭṭhatī’”ti.

Bà-la-môn đại phú ấy học thuộc lòng bài kệ này từ Thế Tôn. Khi quần chúng tụ hội tại thính đường và giữa các người con đang ngồi họp, vị ấy đọc lên bài kệ:
Atha kho so brāhmaṇamahāsālo bhagavato santike imā gāthāyo pariyāpuṇitvā sabhāyaṃ mahājanakāye sannipatite puttesu ca sannisinnesu abhāsi:

‘Khi chúng sanh, tôi mừng
Tôi muốn chúng sinh thành.
Cùng vợ, chúng âm mưu,
Chống tôi và đuổi tôi,
Chẳng khác gì con chó,
Xua đuổi bầy heo lợn,
‘Yehi jātehi nandissaṃ,
yesañca bhavamicchisaṃ;
Te maṃ dārehi sampuccha,
sāva vārenti sūkaraṃ.

Ác độc và lỗ mãng,
Chúng gọi tôi: "Cha thân".
Chúng thật quỷ Dạ-xoa,
Ðội lốt là con tôi,
Và chúng trục xuất tôi,
Khi tôi đến tuổi già,
Asantā kira maṃ jammā,
tāta tātāti bhāsare;
Rakkhasā puttarūpena,
te jahanti vayogataṃ.

Như ngựa già suy nhược,
Bị tẩn xuất chuồng ăn.
Nay cha già bọn trẻ,
Phải ăn xin nhà người,
Assova jiṇṇo nibbhogo,
khādanā apanīyati;
Bālakānaṃ pitā thero,
parāgāresu bhikkhati.

Thà cho tôi cái gậy,
Hơn lũ con bất hiếu.
Với gậy, chận bò dữ,
Chận được loại chó dữ,
Daṇḍova kira me seyyo,
yañce puttā anassavā;
Caṇḍampi goṇaṃ vāreti,
atho caṇḍampi kukkuraṃ.

Chỗ tối dò an toàn,
Chỗ sâu, tìm chân đứng,
Với sức mạnh chiếc gậy,
Vấp ngã đứng dậy được.
Andhakāre pure hoti,
gambhīre gādhamedhati;
Daṇḍassa ānubhāvena,
khalitvā patitiṭṭhatī’”ti.

Rồi những người con Bà-la-môn đại phú ấy, dắt người cha về nhà, tắm rửa và mỗi người đắp cho cha một bộ áo.
Atha kho naṃ brāhmaṇamahāsālaṃ puttā gharaṃ netvā nhāpetvā paccekaṃ dussayugena acchādesuṃ.

Rồi Bà-la-môn đại phú ấy cầm một bộ áo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm;
Atha kho so brāhmaṇamahāsālo ekaṃ dussayugaṃ ādāya yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi.

sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho brāhmaṇamahāsālo bhagavantaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Gotama, chúng con Bà-la-môn, có dâng cúng sở phí cho bậc Ðạo Sư.
“mayaṃ, bho gotama, brāhmaṇā nāma ācariyassa ācariyadhanaṃ pariyesāma.

Mong Tôn giả Gotama chấp nhận sở phí cho bậc Ðạo Sư của con.”
Paṭiggaṇhatu me bhavaṃ gotamo ācariyadhanan”ti.

Và Thế Tôn vì lòng từ chấp nhận.
Paṭiggahesi bhagavā anukampaṃ upādāya.

Rồi Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho so brāhmaṇamahāsālo bhagavantaṃ etadavoca:

“Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama ...
“abhikkantaṃ, bho gotama ...pe...

Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”
upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt