Tương Ưng Bộ 9.8
Saṃyutta Nikāya 9.8
1. Phẩm Rừng
1. Vanavagga
Gia Phụ hay Say Ðắm
Kulagharaṇīsutta
Một thời, một Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
Ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe.
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy sống thân mật quá đáng đối với một gia đình.
Tena kho pana samayena so bhikkhu aññatarasmiṃ kule ativelaṃ ajjhogāḷhappatto viharati.
Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, vì thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác vị ấy, biến hình thành nữ gia chủ của gia đình ấy và đi đến Tỷ-kheo ấy. Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ với Tỷ-kheo ấy:
Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṃ bhikkhuṃ saṃvejetukāmā yā tasmiṃ kule kulagharaṇī, tassā vaṇṇaṃ abhinimminitvā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāya ajjhabhāsi:
“Trên bờ sông, cửa chợ,
Tại trạm nghỉ, lộ trình,
Dân chúng thường tập hợp,
Tranh luận liền khởi lên.
Giữa ta và giữa Ông,
Có gì là sai khác?
“Nadītīresu saṇṭhāne,
sabhāsu rathiyāsu ca;
Janā saṅgamma mantenti,
mañca tañca kimantaran”ti.
(Vị Tỷ-kheo):
“Nhiều tiếng qua tiếng lại,
Bậc khổ hạnh kham nhẫn,
Chớ cảm thấy bực phiền,
Chớ phát sinh nhiễm trước.
“Bahūhi saddā paccūhā,
khamitabbā tapassinā;
Na tena maṅku hotabbaṃ,
na hi tena kilissati.
Ai bị tiếng rối loạn,
Như nai trong rừng rú,
Ðược gọi là khinh tâm,
Khó tu hành thành tựu.”
Yo ca saddaparittāsī,
vane vātamigo yathā;
Lahucittoti taṃ āhu,
nāssa sampajjate vatan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt