Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Khuddaka Nikāya - Tiểu Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Sutta Nipāta 4.14

Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya

Kinh Tập
Sutta Nipāta

Kinh Tuvataka
Tuvaṭakasutta

Người hỏi:
(Pucchako):

915. Con hỏi bậc Ðại tiên,
Bậc bà con mặt trời,
Con đường đến viễn ly,
Con đường đến an tịnh,
Tỷ-kheo sau khi thấy,
Làm thế nào mát lạnh,
Không có sự chấp thủ,
Một vật gì ở đời?
915. "Pucchāmi taṃ ādiccabandhu,
Vivekaṃ santipadañca mahesi;
Kathaṃ disvā nibbāti bhikkhu,
Anupādiyāno lokasmiṃ kiñci".

Thế Tôn:
(iti bhagavā):

916. Thế Tôn đáp như sau:
Hãy chặt đứt hoàn toàn,
Gốc rễ các hý luận,
Mọi tư tưởng "tôi là ",
Tất cả phải chấm dứt,
Phàm có nội ái nào,
Sau khi nhiếp phục chúng,
Thường chánh niệm học tập.
916. "Mūlaṃ papañcasaṅkhāya,
Mantā asmīti sabbamuparundhe;
Yā kāci taṇhā ajjhattaṃ,
Tāsaṃ vinayā sadā sato sikkhe.

917. Phàm có loại pháp gì,
Ðược thắng tri hoàn toàn,
Hoặc thuộc về nội pháp,
Hay thuộc về ngoại pháp,
Chớ có làm kiên trì,
Bất cứ một pháp nào,
Trạng thái ấy không gọi,
Sự mát lạnh của tịnh.
917. Yaṃ kiñci dhammamabhijaññā,
Ajjhattaṃ atha vāpi bahiddhā;
Na tena thāmaṃ kubbetha,
Na hi sā nibbuti sataṃ vuttā.

918. Chớ có nghĩ như sau:
Cái kia là tốt hơn,
Ðây là hạ liệt hơn,
Hay đây là ngang bằng,
Do phải bị xúc chạm,
Với các sắc sai biệt,
Hãy chớ để tự mình,
An trú trên vọng tưởng.
918. Seyyo na tena maññeyya,
Nīceyyo atha vāpi sarikkho;
Phuṭṭho anekarūpehi,
Nātumānaṃ vikappayaṃ tiṭṭhe.

919. Hãy giữ được an tịnh,
Về phía tự nội tâm,
Tỷ-kheo không cầu tìm,
An tịnh từ chỗ khác,
Với người được an tịnh,
Từ phía tự nội tâm,
Ðã không có tự ngã,
Từ đâu có vô ngã.
919. Ajjhattamevupasame,
Na aññato bhikkhu santimeseyya;
Ajjhattaṃ upasantassa,
Natthi attā kuto nirattā vā.

920. Như chính giữa trung ương,
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng,
Cũng vậy, này Tỷ-kheo
Hãy đứng lặng không động,
Không tạo nên bồng bột,
Ðối sự gì ở đời.
920. Majjhe yathā samuddassa,
Ūmi no jāyatī ṭhito hoti;
Evaṃ ṭhito anejassa,
Ussadaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci".

Người hỏi:
(Pucchako):

921. Vị có mắt rộng mở
Ðã tuyên bố rõ ràng,
Pháp có thể chế ngự,
Mọi nguy hiểm khó khăn,
Bậc Hiền thiện mong Ngài,
Tuyên bố rõ con đường,
Hay về biệt giải thoát,
Hoặc về pháp thiền định?
921. "Akittayī vivaṭacakkhu,
Sakkhidhammaṃ parissayavinayaṃ;
Paṭipadaṃ vadehi bhaddante,
Pātimokkhaṃ atha vāpi samādhiṃ".

Thế Tôn:
(iti bhagavā):

922. Chớ có những con mắt,
Ðầy dẫy những tham đắm!
Hãy chận đứng lỗ tai,
Nghe câu chuyện của làng.
Lại chớ nên đắm say,
Các mùi vị ngon lành,
Chớ xem là của ta,
Mọi sự vật ở đời!
922. "Cakkhūhi neva lolassa,
Gāmakathāya āvaraye sotaṃ;
Rase ca nānugijjheyya,
Na ca mamāyetha kiñci lokasmiṃ.

923. Trong khi được cảm giác,
Với các loại cảm xúc,
Tỷ-kheo không than van,
Bất cứ một điều gì.
Vị ấy không cầu mong,
Dầu lại sanh hữu nào,
Và không có run sợ,
Rơi vào các kinh hoàng.
923. Phassena yadā phuṭṭhassa,
Paridevaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci;
Bhavañca nābhijappeyya,
Bheravesu ca na sampavedheyya.

924. Các đồ ăn thâu được,
Cùng với các đồ uống,
Các món ăn nhai được,
Các đồ vải mặc được,
Chớ có cất chứa chúng,
Những đồ vật nhận được,
Chớ có quá lo âu,
Nếu không thâu được chúng.
924. Annānamatho pānānaṃ,
Khādanīyānaṃ athopi vatthānaṃ;
Laddhā na sannidhiṃ kayirā,
Na ca parittase tāni alabhamāno.

925. Hãy tu tập thiền định
Chớ làm kẻ lang thang,
Chớ ưa thích trạo cử,
Ðừng rơi vào phóng dật,
Ðối với các chỗ ngồi,
Cùng với các chỗ nằm,
Tỷ-kheo hãy an trú,
Những chỗ không tiếng động.
925. Jhāyī na pādalolassa,
Virame kukkuccā nappamajjeyya;
Athāsanesu sayanesu,
Appasaddesu bhikkhu vihareyya.

926. Ngủ nghỉ có chừng mực,
Chớ có ngủ quá nhiều,
Hãy luôn luôn tỉnh thức,
Nỗ lực và nhiệt tâm,
Hãy từ bỏ biếng nhác,
Man trá, cười, chơi đùa,
Hãy từ bỏ dâm dục,
Bỏ ưa thích trang điểm.
926. Niddaṃ na bahulīkareyya,
Jāgariyaṃ bhajeyya ātāpī;
Tandiṃ māyaṃ hassaṃ khiḍḍaṃ,
Methunaṃ vippajahe savibhūsaṃ.

927. Chớ có dùng bùa chú,
A-thar-va Vệ-đà,
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu,
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm.
927. Āthabbaṇaṃ supinaṃ lakkhaṇaṃ,
No vidahe athopi nakkhattaṃ;
Virutañca gabbhakaraṇaṃ,
Tikicchaṃ māmako na seveyya.

928. Tỷ-kheo không run sợ,
Khi bị người chỉ trích,
Cũng không có cống cao,
Khi được khen tán thán,
Hãy từ bỏ tham ái,
Cùng với tánh xan tham,
Kể luôn cả phẫn nộ,
Cùng với nói hai lưỡi.
928. Nindāya nappavedheyya,
Na uṇṇameyya pasaṃsito bhikkhu;
Lobhaṃ saha macchariyena,
Kodhaṃ pesuṇiyañca panudeyya.

929. Tỷ-kheo không an trú,
Trong nghề nghiệp bán buôn,
Lại không có chỉ trích,
Bất cứ tại chỗ nào,
Khi ở tại thôn làng,
Không tức giận một ai,
Chớ có vì lợi dưỡng,
Nói chuyện với quần chúng.
929. Kayavikkaye na tiṭṭheyya,
Upavādaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci;
Gāme ca nābhisajjeyya,
Lābhakamyā janaṃ na lapayeyya.

930. Tỷ-kheo không nên nói,
Khoa trương quá mức độ,
Và cũng không nói lời
Có dụng ý lợi dưỡng.
Chớ có học tập theo,
Lối sỗ sàng trâng tráo,
Chớ có thốt ra lời
Khiêu khích xung đột ai!
930. Na ca katthitā siyā bhikkhu,
Na ca vācaṃ payuttaṃ bhāseyya;
Pāgabbhiyaṃ na sikkheyya,
Kathaṃ viggāhikaṃ na kathayeyya.

931. Chớ có bị dắt dẫn,
Rơi vào lời nói láo,
Không cố ý làm nên,
Ðiều man trá giả dối,
Chớ có khinh người khác,
Về vấn đề sinh mạng,
Về vấn đề trí tuệ,
Và vấn đề giới hạnh.
931. Mosavajje na nīyetha,
Sampajāno saṭhāni na kayirā;
Atha jīvitena paññāya,
Sīlabbatena nāññamatimaññe.

932. Sau khi phẫn uất nghe
Nhiều ngôn từ lời lẽ
Của các vị Sa-môn,
Hay những kẻ phàm phu,
Chớ có phản ứng họ,
Với những lời thô ác,
Bậc hiền lành an tịnh,
Không phản pháo một ai.
932. Sutvā rusito bahuṃ vācaṃ,
Samaṇānaṃ vā puthujanānaṃ;
Pharusena ne na paṭivajjā,
Na hi santo paṭisenikaronti.

933. Sau khi rõ biết được
Pháp này là như vậy,
Tỷ-kheo hãy học tập,
Sáng suốt và chánh niệm,
Rõ biết sự mát lạnh,
Ðược gọi bậc "an tịnh ",
Chớ có sống phóng dật,
Trong lời dạy Cù-đàm.
933. Etañca dhammamaññāya,
Vicinaṃ bhikkhu sadā sato sikkhe;
Santīti nibbutiṃ ñatvā,
Sāsane gotamassa na pamajjeyya.

934. Bậc đã được chiến thắng,
Không ai chiến thắng nổi
Tự mình thấy được pháp,
Không nghe theo tin đồn,
Do vậy hãy học tập
Luôn luôn không phóng dật,
Với tâm tư cung kính,
Lời dạy đức Thế Tôn,
Thế Tôn nói như vậy.
934. Abhibhū hi so anabhibhūto,
Sakkhidhammamanītihamadassī;
Tasmā hi tassa bhagavato sāsane,
Appamatto sadā namassamanusikkhe"ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt